Tag Archive | đồ gốm

Về gốm Đường Cồ – một loại gốm thuộc văn hóa Đông Sơn

Trong văn hóa Đông Sơn, chúng ta thường bắt gặp một thuật ngữ quen thuộc là “gốm Đường Cồ”. Vậy gốm Đường Cồ là gì? Tại sao lại gọi là gốm Đường Cồ?

Đường Cồ là một địa điểm khảo cổ học thuộc thôn Liệt Phương, xã Hoài Đức, huyện Phú Xuyên (Hà Nội). Từ kết quả khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã chú ý tới một loại hình gốm với những nét đặc trưng như kiểu miệng loe thành cong lòng máng, văn thừng thô, tạo thành những vết lõm như tổ ong, màu gốm trắng mốc, phớt hồng. Qua so sánh nhận thấy, đây là loại gốm phổ biến trong các di chỉ khảo cổ học thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn khu vực trung du và đồng bằng Bắc bộ, có sự khác biệt so với gốm ở lưu vực sông Mã, sông Cả. Từ đó, thuật ngữ “gốm Đường Cồ” bắt đầu được sử dụng để chỉ loại hình gốm địa phương tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.

Gốm Đường Cồ trắng mốc và phớt hồng tại di chỉ khảo cổ học Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội (Nguồn: Lương Thị Hà)

Gốm Đường Cồ thể hiện sự tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật chế tác gốm trong văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ. Đất sét pha cát tương đối mịn, đều để làm xương gốm được chọn, sàng lọc cẩn thận, ít tạp chất nên gốm tương đối đanh, cứng và ít thấm nước. Gốm được nung ở nhiệt độ khá cao, khoảng 900oC. Bề ngoài gốm có màu sáng: trắng đục ngả vàng, hồng nhạt hay trắng mốc. Bên trong gốm có màu xám đen đều.

Tuy nhiên, về kiểu dáng và hoa văn trang trí, nhìn chung gốm Đường Cồ có phần suy giảm đáng kể so với các giai đoạn trước. Có lẽ, những người thợ Đông Sơn đã tập trung thời gian, trí lực, công sức vào các loại hình đồ đồng nhiều hơn. Bởi lẽ, các loại hình và đồ án hoa văn đẹp mắt mà ta thấy trên đồ gốm của giai đoạn trước đều có mặt trên đồ đồng của văn hóa Đông Sơn.

Gốm Đường Cồ trong mộ Đông Sơn tại di chỉ khảo cổ học Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội

Gốm Đường Cồ phân bố chủ yếu ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, có nguồn gốc và phát triển trực tiếp từ giai đoạn văn hóa Gò Mun. Kết quả khai quật tại di chỉ Vinh Quang (Hoài Đức, Hà Nội) đã chứng tỏ điều này. Đồ gốm lớp dưới di chỉ này mang tính chất của gốm Gò Mun, càng lên các lớp trên, tần suất xuất hiện của gốm Đường Cồ càng nhiều, đến lớp trên cùng (thuộc văn hóa Đông Sơn), chỉ còn tìm thấy gốm Đường Cồ. Bên cạnh gốm Đường Cồ ở lưu vực sông Hồng, loại hình gốm địa phương của văn hóa Đông Sơn còn có gốm Đông Sơn ở lưu vực sông Mã, gốm Làng Vạc ở lưu vực sông Cả.

Như vậy, gốm Đường Cồ là một trong 3 loại gốm tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn tuy không được chú ý về hình thức như đồ đồng, song, gốm có chất lượng tốt, kỹ thuật cao hơn so với loại hình gốm lưu vực sông Mã hay sông Cả. Gốm Đường Cồ được phát triển trực tiếp từ loại gốm Gò Mun lên. Cùng với hiện vật đồng, trong văn hóa Đông Sơn, những hiện vật gốm đã phản ánh một cách khách quan đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Việt cổ giai đoạn này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Đề tài khoa học: Hoa văn trên đồ gốm văn hóa Đồng Đậu

Hoa văn gốm là nguồn sử liệu rất quan trọng để nghiên cứu về văn hóa Đồng Đậu (3500 – 2900 năm cách nay). Khi nghiên cứu về ý nghĩa hoa văn gốm cổ, tác giả Hán Văn Khẩn cho rằng “Hoa văn gốm là một đặc trưng quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất để xác định một nền văn hoá khảo cổ” [1] .
Tên đề tài: Hoa văn trên đồ gốm văn hóa Đồng Đậu
Chủ trì: ThS. Bùi Hữu Tiến
Cơ quan công tác: Bảo tàng Nhân học, ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN
Đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu ngày 18 tháng 4 năm 2011.

Tóm tắt đề tài
Hoa văn gốm là nguồn sử liệu rất quan trọng để nghiên cứu về văn hóa Đồng Đậu (3500 – 2900 năm cách nay). Khi nghiên cứu về ý nghĩa hoa văn gốm cổ, tác giả Hán Văn Khẩn cho rằng “Hoa văn gốm là một đặc trưng quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất để xác định một nền văn hoá khảo cổ” [1].
Có thể nói, trong gần 50 năm nghiên cứu về văn hóa Đồng Đậu, việc nghiên cứu đồ gốm nói chung và hoa văn gốm nói riêng ngày càng được chú trọng, quan tâm và đã đạt được một số thành tựu. Ở khía cạnh nghiên cứu hoa văn, các nhà khoa học đã bước đầu làm rõ một số nét đặc trưng về mặt loại hình, kỹ thuật. Có thể nói, những thành tựu này đã góp phần quan trọng để xác định sự tồn tại của văn hóa Đồng Đậu cũng như góp phần làm rõ đặc trưng của văn hóa này. Nhìn chung, việc nghiên cứu về hoa văn gốm Đồng Đậu còn tản mạn, chưa mang tính tổng hợp, toàn diện, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu như việc phân loại hoa văn, sự biến đổi của kỹ thuật trang trí hoa văn, các nét đặc trưng của hoa văn, giá trị của hoa văn gốm.

1. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu 2 nội dung chính:
– Nghiên cứu về mặt loại hình, kỹ thuật, đặc trưng của hoa văn
– Nghiên cứu giá trị của hoa văn
Những nội dung này đã được tác gải trình bày trong chương 1 và 2 của đề tài.

2. Phương pháp nghiên cứu và hướng tiếp cận

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: thống kê, mô tả, loại hình học, nghiên cứu so sánh đồng đại, lịch đại. Đề tài thử tiếp cận vấn đề từ hướng nghiên cứu mới như nghiên cứu biểu tượng.

3. Kết quả nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất: Tập hợp nguồn tư liệu, nghiên cứu về hoa văn Đồng Đậu, từ đó giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu hoa văn Đồng Đậu trong gần 50 năm qua.
Thư hai: Phân loại chi tiết các loại hoa văn. Hoa văn trong văn hóa Đồng Đậu có nhiều loại như văn thừng, văn chải, văn khắc vạch kiểu Phùng Nguyên, văn khuông nhạc, văn khắc vạch kiểu Gò Mun, văn in ô vuông, văn in hình chấm tròn cuống dạ, văn in dấu đan, văn in nan chiếu. Đối với những loại hoa văn chính, tiêu biểu, tác giả đã đi sâu vào phân định các phụ kiểu để thấy được tính đa dạng và đặc điểm của từng loại. Chặng hạn như văn khuông nhạc đã xác định được trên 20 phụ kiểu khác nhau. Trong mỗi phụ kiểu có thể có nhiều đồ án.
Thứ ba: Phân tích làm rõ những biến đổi của kỹ thuật trang trí hoa văn Đồng Đậu, đặc biệt là loại văn khắc vạch và văn in chấm. Đây là những kỹ thuật trang trí đã có nguồn gốc từ văn hoá Phùng Nguyên nhưng đến giai đoạn Đồng Đậu đã có những cải biến. Chính sự thay đổi về mặt kỹ thuật này đã góp phần hình thành lên một phong cách hoa văn mới. Người Việt cổ đã sử dụng những kỹ thuật này để thể hiện những mô típ hoa văn truyền thống của mình.
Thứ tư: Xác định những nét đặc trưng của hoa văn Đồng Đậu.
+ Về mặt loại hình: Trong các loại hoa văn thì văn khuông nhạc, văn in hình hạt, văn đan là 3 loại hoa văn đặc trưng của hoa văn gốm Đồng Đậu. Trong các kiểu văn khuông nhạc Đồng Đậu thì văn chữ S, đường tròn xoăn, văn sóng nước là các kiểu đặc trưng nhất. Nhìn chung, trong trang trí hoa văn, người Đồng Đậu thích dụng các đường cong, có độ mở, không sử dụng các đường góc cạnh như gốm Phùng Nguyên hay gốm Gò Mun. Các đồ án hoa văn mang tính đơn giản, phóng khoáng, ít cầu kỳ. Các đồ án hoa văn mang tính đối xương cũng ít hơn so với giai đoạn Phùng Nguyên. Các họa tiết đệm cũng có nhiều biến đổi theo hướng đơn giản, thường là các đường khắc vạch ngắn, hay các đường tròn xoắn. Chính những khác biệt ở trên tạo lên nét đặc trưng của gốm Đồng Đậu.


+ Về kỹ thuật trang trí: Để tạo ra các loại văn trang trí, người Đồng Đậu chủ yếu sử dụng kỹ thuật khắc vạch, in ấn. Trong đó, kỹ thuật vạch và in ấn bằng que nhiều răng là kỹ thuật đặc trưng của người Đồng Đậu. Họ sử dụng những que có nhiều đầu nhọn hoặc tù để tạo ra các loại văn khuông nhạc, văn in hình hạt. Đây là điểm khác biệt cơ bản của kỹ thuật tạo hoa văn gốm Đồng Đậu so với kỹ thuật tạo hoa văn gốm Phùng Nguyên và Gò Mun. Trong văn hóa Phùng Nguyên hoặc Gò Mun sau này, các đồ án hoa văn điển hình chủ yếu được tạo ra bằng cách sử dụng bút khắc vạch có một hoặc hai đầu nhọn.
+ Về các sắp xếp và trang trí trang trí: Hoa văn trang trí được kết hợp hài hòa với kiểu dáng đồ gốm. Đồ gốm Đồng Đậu thường có bụng nở, thấp, miệng loe cong, bản miệng rông, chân đế thấp hoặc đáy bằng. Vì vậy, hoa văn trang trí chủ yếu được bố trí ở vai, cổ, thành miệng và mặt trong miệng gốm, ít trang trí ở phần chân đế. Việc trang trí hoa văn bên trong miệng gốm là một nét đặc trưng của gốm Đồng Đậu. Trong văn hóa Phùng Nguyên trước đó, hoa văn chủ yếu tập trung ở phần thân và cổ đồ gốm .
Trong văn hóa Đồng Đậu, đồ gốm có đáy bằng khá phổ biến. Do kỹ thuật làm gốm, ở mặt ngoài đáy của những đồ gốm có đáy bằng thường có dấu văn đan. Mặc dù, loại văn này đơn thuần mang tính kỹ thuật, không mang tính trang trí nhưng sự nở rộ của chúng đã góp phàn hình thành lên đặc trưng của hoa văn gốm Đồng Đậu.
Hoa văn gốm Đồng Đậu thường được trang trí theo băng dải nằm ngang quanh miệng, cổ hoặc thân gốm.
Trong phong cách trang trí hoa văn, người thợ gốm Đồng Đậu không sử dụng đơn điệu một kiểu loại hoặc một nhóm hoa văn nào. Họ thường dùng nhiều kiểu phối hợp làm tăng thêm sự phong phú của dạng hình hoa văn. Trong sự phối hợp, họ đã chủ ý xác định văn chủ đạo và văn phụ trợ, văn làm nền, nên đã tôn được cài gì là chủ đạo trong sự phối hợp nhiều kiểu dáng văn khác nhau.
Các mô típ hoa văn gốm Đồng Đậu được bài trí theo các quy luật đối xứng như đối xứng gương, đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến. Những kiểu đối xứng này đã được sử dụng phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Trong khi người Phùng Nguyên thích dụng các loại đối xứng gương và đối xứng trục thì người Đồng Đậu sử dụng phổ biến kiểu đối xứng tịnh tiến.
+ Hoa văn gốm trong mối tương quan với chất liệu gốm
Những hoa văn mang tính mỹ thuật như văn khắc vạch, văn khuông nhạc, văn in ô vuông, chủ yếu trang trí trên gốm chắc, rất hiếm khi trang trí trên gốm xốp.
+ Hoa văn gốm trong mối quan hệ với chức năng, loại hình đồ gốm
Xét về mặt loại hình hiện vật, có thể thấy các loại hình thường được trang trí hoa văn gồm bình, nồi, bát, âu, chạc gốm, dọi xe chỉ, trong đó bình gốm là loại hình được trang trí hoa văn nhiều nhất. Các đồ án hoa văn cầu kỳ, phức tạp thường được người thợ thủ công dành để trang trí trên loại hình hiện vật này.
+ Diễn biến của hoa văn gốm trong quá trình phát triển của văn hóa Đồng Đậu
Các loại hình hoa văn gốm có xu hướng biến đổi khác nhau theo thời gian (ở phương diện loại hình, số lượng – mức độ phổ biến). Có loại xu hướng ngày càng tăng, loại hình ngày càng đa dạng hơn như văn khuông nhạc. Có loại có xu hướng biến đổi ngược lại, tiêu biểu là văn khắc vạch kiểu Phùng Nguyên.
Xu hướng biến đổi của hoa văn gốm phản ánh sự thay đổi về quan điểm thẩm mỹ của con người. Chính sự biến đổi này tạo thành đặc điểm của từng giai đoạn của văn hóa Đồng Đậu, và cũng nhờ đó chúng ta có thể nhận ra và phân chia các giai đoạn của văn hóa Đồng Đậu dễ dàng hơn và chính xác hơn.
Thứ năm: Đi sâu nghiên cứu làm rõ giá trị của hoa văn gốm Đồng Đậu.
+ Hoa văn thể hiện đặc trưng văn hóa của cư dân Đồng Đậu
Hoa văn gốm của văn hóa Đồng Đậu có đặc điểm riêng. Sự đồng nhất của hoa văn trang trí ở mấy chục các địa điểm khảo cổ học khác nhau thuộc văn hoá Đồng Đậu không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, sự đồng quy văn hoá mà thể hiện sự thống nhất cao về văn hoá giữa các thị tộc, bộ lạc trong cộng đồng dân tộc chung. Nó phản ánh mối quan hệ thuân thuộc giữa các thị tộc, bộ lạc. Như vậy, hoa văn gốm đã góp phần để hình thành lên đặc trưng của văn hóa Đồng Đậu, giúp chúng ta phân biệt văn hóa Đồng Đậu với những văn hóa trước và sau nó trong truyền thống văn hoá Tiền Đông Sơn cũng như các văn hoá đồng đại ở khu vực.
+ Hoa văn gốm góp phần phản ánh các hoạt động kinh tế và đời sống tinh thần phong phú của cư dân Đồng Đậu
Khía cạnh kinh tế: Hoa văn thể hiện sự phát triển của nghề làm gốm, nghề đan lát.


Khía cạnh tinh thần: hoa văn phản ánh khiếu thẩm mỹ phong phú của người Đồng Đậu. Một số loại hoa văn của văn hóa Đồng Đậu có thể là biểu tượng của mặt trời như văn chữ S, đường tròn xoắn, đường tròn đồng tâm. Thờ mặt trời là tín ngưỡng phổ biến của cư dân nông nghiệp ở Đông Nam Á.


+ Hoa văn gốm góp phần phản ánh môi trường sống của người Đồng Đậu
Trong các mô típ hoa văn trang trí trên gốm Đồng Đậu thì văn sóng nước rất phổ biến. Văn sóng nước phản ánh môi trường sông nước và ước vọng cầu nước của những cư dân trồng lúa nước.
+ Hoa văn gốm là một trong những cở sở quan trọng để phân chia các giai đoạn phát triển của văn hóa Đồng Đậu.
Trên cơ sở nghiên cứu diễn biến hoa văn gốm ở di tích Thành Dền và Đồng Đậu, kết hợp với các tài liệu địa tầng, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng văn hóa Đồng Đậu có 3 giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn Phùng Nguyên muộn – Đồng Đậu sớm; giai đoạn Đồng Đậu điển hình; giai đoạn Đồng Đậu muộn – Gò Mun sớm.
+ Hoa văn phản ánh mối quan hệ văn hóa.
Nghệ thuật trang trí hoa văn Đồng Đậu là kết quả của quá trình “hỗn dung” văn hoá. Nó được hình thành trên cơ sở kế thừa các yếu tố văn hoá Phùng Nguyên, hội nhập, tiếp thu các yếu tố của nhóm Mả Đống – Gò Con Lợn. Tất cả những yếu tố văn hoá cả cũ và mới khi được kế thừa, hội nhập không phải được bê nguyên si, các đồ án hoa văn được sao chép thuần tuý mà đều được tinh lọc và biến đổi để phù hợp với quan điểm thẩm mỹ mới. Để hình thành nền nghệ thuật Đồng Đậu, thì yếu tố Phùng Nguyên là nền tảng, nòng cốt quan trọng, tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những đóng góp rất to lớn của yếu tố Mả Đống – Gò Con Lợn.
+ Những đóng góp của nghệ thuật trang trí hoa văn giai đoạn Đồng Đậu vào sự phát triển của nghệ thuật trang trí thời Tiền Đông Sơn và Đông Sơn.
Người Đồng Đậu đã kế thừa, bảo lưu những mẫu, mô típ hoa văn truyền thống (như chữ S, đường tròn xoắn, văn khắc vạch cắt nhau, sóng nước,..), phát triển khiếu thẩm mỹ và tri thức về nhịp điệu (các kiểu đối xứng). Mặt khác không ngừng sáng tạo ra những mẫu, mô típ hoa văn và những cách thức, thủ pháp trang trí mới. Trong trang trí, chú trọng trang trí bên trong miệng gốm. Lối trang trí này sau này tiếp tục được người Gò Mun kế thừa và phát triển.
Có thể nói, nghệ thuật trang trí thời Đồng Đậu đã có những đóng góp rất lớn trong việc hình thành lên một nền nghệ thuật Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng.
Hoa văn gốm Đồng Đậu là sản phẩm kết tinh trong quá trình lao động sản xuất của người Việt cổ. Đó chính là nơi phản ánh cuộc sống chân thực và sống động nhất. Vì vậy, đó là kho báu vô giá đối với các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về cuộc sống con người thời xưa.

Nguồn tin: Bảo tàng Nhân học

[1]Hán Văn Khẩn 1983, Xung quanh vấn đề ý nghĩa hoa văn gốm cổ, KCH, số 2, tr: 33.

Các khu lò sản xuất gốm 10 thế kỷ đầu công nguyên

10 thế kỷ đầu Công nguyên là một giai đoạn lịch sử đặc biệt trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đây là giai đoạn mà Việt Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ, là giai đoạn người Việt luôn luôn nổi dậy đấu tranh giành quyền độc lập. Mở đầu giai đoạn này là từ năm 1979 trước Công nguyên khi Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc của An Dương Vương và kết thục vào năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng mở đầu thời độc lập tự chủ.

Vò 10 thế kỷ đầu công nguyên

Ở giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được thành tựu lớn trong sản xuất đồ gốm. Từ gốm đất nung ở nhiệt độ thấp, với sự xuất hiện của gốm sành các khu lò, được nung trong các lò nung có nhiệt độ cao là bước nhảy vọt và gốm tráng men, cốt làm từ caolin, gốm được sản xuất tập trung thành then chốt. Những kỹ thuật làm gốm men và kỹ thuật nung gốm trong lò, kiểu dáng đồ gốm có ảnh hưởng nhất định từ Trung Hoa. Những đồ gốm được làm tại Việt Nam theo phong cách Trung Hoa mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi là gốm Việt – Hán đã được sản xuất trong giai đoạn này. Cùng với nó là một hệ thống lò gốm lần lượt xuất hiện. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện được nhiều khu lò sản xuất gốm cổ ở miền Bắc Việt Nam, tập trung ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Thanh Hóa. Vào thời điểm đó, đây là ba trung tâm sản xuất gốm chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam. Những cuộc khai quật khảo cổ học đặc biệt trở nên quan trọng trong việc làm sáng tỏ các khu lò sản xuất gốm trong các trung tâm này.

Hũ 10 thế kỷ đầu công nguyên

Trung tâm gốm Vĩnh Phúc

Tại đây đã phát hiện được các lò sau:

– Khu lò Thanh Lãng (thuộc xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên): là khu lò rất lớn, các lò nung gốm tập trung thành nhiều cụm lò từ 5-6 lò nung, nằm trên các sườn đồi hoặc gò đất cao ven dòng sông cổ vốn là nhánh của sông Cà Lồ. Phạm vi phân bố trải dài qua nhiều thôn như Minh Lương, Bên Đường và Hồng Hồ. Viện Khảo cổ học đã khai quật 2 khu lò gốm trong số hàng chục lò nung gốm còn lại. Các lò nung gốm đều được đắp bằng đất, dựa vào địa hình tự nhiên của gò đồi. Sản phẩm của các lò gốm ở đây là đồ sành và bát loại to, đáy tròn, trong lòng có các đường cạo men hình tứ giác. Khu lò gốm có niên đại từ cuối thời Lục triều đến đầu thời Đường.

– Khu lò Lũng Ngoại (thuộc xã Lũng Hòa, huyện Yên Lạc): đây cũng là một khu lò lớn, mật độ phân bố của các lò nung ở đây dày đặc, trải dài gần 1 km ven bờ Đông của dòng sông Phan. Khu lò này do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phát hiện và khai quật 1 lò gốm còn nguyên vẹn nhất. Năm 2003, Viện Khảo cổ học tiếp tục khai quật thêm 1 lò nung gốm nữa. Sản phẩm của các lò gốm ở đây là các loại vò sành 4-6 núm, bát, chậu, âu sành và đồ gốm men ngà. Loại bát gốm tráng men ngà tìm được trong lò là loại bát to, đáy gẫy, chân đế đặc, lòng có các đường cạo men hình tứ giác. Khu lò có niên đại khoảng đầu đến giữa thời Đường. Một số địa điểm khảo cổ học ở vùng ven biển Thanh Nghệ, Quảng Ninh cũng đã phát hiện được loại bát này, nhiều khả năng các lò gốm này đã tham gia vào việc buôn bán trong con đường tơ lụa thời Đường đi qua vùng biển Việt Nam. Một số địa điểm trong Hoàng thành Thăng Long như Bắc Môn, Trần Phú cũng tìm được loại bát này.

– Khu lò Đồng Đậu (thị trấn Minh Tân, huyện Yên Lạc): khu lò này nằm ngày dưới chân di chỉ thời đại kim khí Đồng Đậu. Nó được phát hiện ngẫu nhiên trong đợt khai quật di chỉ này. Hiện nay khu lò đã bị phá hủy hoàn toàn. Cấu trúc của lò gốm còn mang ảnh hưởng của lò gốm Nam Trung Quốc. Sản phẩm của lò là gạch múi bưởi in văn ca rô, trám lồng, sóng nước, bát đĩa bán sứ tráng men ngà rất giống với sản phẩm của lò Đại Lai (Bắc Ninh), đặc biệt là sự gần gũi nhau trong các ký hiệu khắc ở đáy bát, đĩa. Khu lò có niên đại khoảng đầu thời Lục triều.

Trung tâm gốm Thanh Hóa

Tại Thanh Hóa có một khu lò nung quy mô rất lớn đã được phát hiện, đó là khu lò Tam Thọ (xã Đông Vinh, huyện Đông Sơn). Khu lò gốm Tam Thọ được Olov Janse phát hiện và khai quật lần đầu tiên vào năm 1939. Trong lần khai quật này, ông đã phát hiện được hàng chục lò nung gốm, và lần đầu tiên chúng ta được biết rằng những đồ gốm Việt – Hán đã được sản xuất tại Việt Nam vào thời Đông Hán và Lục triều. Năm 2000 và 2001 khu lò gốm này được đào thám sát và khai quật lần thứ hai… Kết quả là đã phát hiện được thêm lớp lò thứ ba có niên đại khoảng đầu Công nguyên cùng với hai lớp lò nung gốm có niên đại từ thế kỷ II đến thế kỷ thứ IV. Những đồ sành và đồ gốm men, sản phẩm gốm gia dụng và gốm xây dựng của các lò gốm Tam Thọ được xác định một cách rõ ràng hơn. Trong khu vực Tam Thọ – Văn Vật còn phát hiện được một hệ thống gốm sành Việt nữa có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, cùng một di chỉ thời Trần thế kỷ XIII-XIV. Trong khoảng 4 thế kỷ hoạt động, tuy chỉ có một khu lò nung nhưng trung tâm gốm Thanh Hóa đã có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiêu thụ gốm ở miền đồng bằng Bắc Bộ và vùng Thanh Nghệ. Hầu hết ở các tỉnh thành miền Bắc. Trong các di chỉ và mộ táng thời Đông Hán và đầu thời Lục triều đều tìm được sản phẩm của lò gốm Tam Thọ, trung tâm gốm Thanh Hóa đã mở đầu cho một dòng gốm mới bên cạnh dòng gốm Đông Sơn truyền thống.

Trung tâm gốm Bắc Ninh

Bắc Ninh là một trung tâm lớn với nhiều khu lò gốm như Đại Lai, Luy Lâu, Tam Sơn, Đương Xá.

– Khu lò Đại Lai sản xuất các loại gốm tráng men gia dụng như bát, đĩa, âu, vò, bình… chất liệu bán sứ tiền thân của gốm men ngọc cùng những đồ sành mịn. Niên đại của khu lò kéo dài suốt thời Lục triều. Đây là những lò rồng đầu tiên và sớm nhất được phát hiện ở Việt Nam. Tại đây đã phát hiện được hàng ngàn con kê bát, đĩa – dụng cụ chống dính men trong nung gốm – là một trong những loại con kê gốm cổ nhất được làm bằng chất liệu sành. Nếu như các lò gốm Thanh Lãng, Lũng Ngoại, Tam Thọ cung cấp những đồ đựng Việt – Hán điển hình với số lượng phong phú nhất thì lò Đại Lai lại cung cấp những sản phẩm bát đĩa tráng men điển hình nhất và nhiều nhất thời kỳ này. Những đống đồ gốm phế thải dày trên 2m ở Đại Lai đã cho thấy phần nào quy mô và thời gian sản xuất của khu lò này.

– Khu lò Luy Lâu sản xuất vật liệu xây dựng. Khu lò nằm ngay cạnh thành Luy Lâu thủ phủ thời Đông Hán. Tại đây có hàng chục lò nung xuất lộ. Đó là những lò cóc thời Đường, được bố trí dày đặc tập trung, có thể do chính quyền đô hộ quản lý. Trong các cuộc khai quật thành Luy Lâu, rất nhiều gạch, ngói đã được phát hiện. Nhiều khả năng những vật liệu kiến trúc đó là sản phẩm của các lò nung này.

– Hệ thống lò Đương Xá (xã Vạn An, huyện Yên Phong) là khu vực có nhiều khu lò gốm thuộc nhiều thời đại khác nhau nằm ở bờ phía Đông của sông Ngũ Huyện Khê và sông Cầu. Khu lò Xóm Núi có các lò gốm sản xuất sành thế kỷ IX-X, với các sản phẩm gốm gia dụng như nồi, vò, bát, âu, chậu… Sản phẩm của lò gốm này có mặt ở nhiều vùng thuộc tỉnh Bắc Ninh, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), di chỉ Thái Lai (Vĩnh Phúc). Khu lò Đồng Khống ở xóm Láng tiếp tục truyền thống của các lò gốm Xóm Núi sản xuất đồ sành, đồng thời sản xuất ngói mũi lá, đồ gốm men. Khu lò này có tới hàng chục lò gốm, mật độ phân bố dày đặc. Hai lò gốm trong số đó đã được khai quật vào đầu năm 2004 có niên đại cuối thời Lý đầu thời Trần. Các lò gốm sành tiền thân của làng Thổ Hà nằm trên đất Đương Xá đến chùa Láng có niên đại khoảng đầu thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. Nhiều sản phẩm của các lò gốm ở đây được phát hiện ở vùng ven biển Bắc Việt Nam, trong các khu mộ Mường ở Hòa Bình, mộ cổ ở huyện Lục Yên (Yên Bái), trong di chỉ và mộ táng ở huyện Sóc Sơn, thành Thăng Long (Hà Nội)…

Các lò gốm 10 thế kỷ đầu Công nguyên ở miền Bắc Việt Nam đã kết hợp được truyền thống gốm Đông Sơn với kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến đương thời của Trung Hoa đã sản xuất ra dòng gốm Việt – Hán mang sắc thái bản địa bên cạnh dòng gốm Đông Sơn tồn tại trong các làng Việt cổ. Các khu lò gốm được khảo cổ học phát hiện chắc chắn chỉ là phần nào của những lò gốm đã từng tồn tại ở giai đoạn này, nhưng chỉ chừng đó cũng đã cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển nhất trong việc sản xuất đồ gốm tiên tiến đương thời.

Nguồn tin: Tạp chí cổ vật; Ảnh: Tác giả

Bảo vật quốc gia: Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga

Chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga là một đại diện tiêu biểu cho dòng gốm men trắng vẽ lam, thường gọi là gốm hoa lam. Dòng gốm hoa lam Việt nam xuất hiện từ thời Trần thế kỷ 14 và phát triển liên tục cho tới ngày nay. Đặc biệt vào thế kỷ 15 dòng gốm hoa lam đã phát triển tới đỉnh cao chẳng những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới.

Qua nhiều tài liệu đã công bố ở nước ngoài như Thái Lan, Indonesia, Philippin, Singapore, Nhật Bản… và các nước vùng Trung Đông chúng tôi đều thấy nhiều loại hình gốm hoa lam Việt Nam rất đặc biệt. Đáng chú ý nhất là chiêc bình gốm hoa lam hiện đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul – Thổ Nhĩ Kỳ. Trên chiếc bình này có dòng minh văn viết bằng men lam: “Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách châu Bùi thị hý bút”. Nội dung của minh văn này cho biết chiếc bình do người thợ họ Bùi ( hay Bùi Thị Hý ) vẽ vào năm thứ 8 của niên hiệu Đại Hòa đời vua Lê Nhân Tông, 1450.


Trang trí Thiên Nga trên bình gốm

Chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga là chiếc bình gốm thuộc sưu tập độc bản trong tàu cổ Cù Lao Chàm khai quật vào năm 1999 – 2000 mà Bảo tàng Lịch sử Quốc gia được lưu giữ và trưng bày.

Số l­ượng hiện vật trong con tàu Cù Lao Chàm với hơn 240 nghìn, không kể hàng vạn mảnh vỡ, hàng nghìn hiện vật đã bị trục vớt trước khi khai quật khảo cổ là một con số khổng lồ. Trong số hàng hóa này có cả một số gốm Chămpa, Trung Quốc và Thái Lan, được các nhà nghiên cứu thống nhất cho là đồ dùng của thủy thủ đoàn. Phần còn lại là hàng hóa gốm sứ có nguồn gốc sản xuất ở Hải Dương và Thăng Long phía Bắc Việt Nam.

Niên đại con tàu cũng đ­ược các nhà khoa học thảo luận. Ở Việt Nam, các ý kiến đều cho là khoảng giữa tới cuối thế kỷ 15 dư­ới thời Lê sơ. Ý kiến về niên đại này khác hẳn với Butterfiels, cho vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 .

Chúng tôi cho rằng, hiện vật gốm tàu cổ Cù Lao Chàm phản ánh rõ nét sự phát triển mạnh mẽ của các loại đồ gốm xuất khẩu với kiểu dáng, loại men và hoa văn rất phong phú, đặc sắc, đóng góp tích cực vào truyền thống riêng biệt của gốm Việt Nam.

Xét về loại hình hiện vật đồ gốm, chúng ta thấy chỉ tập trung theo dòng gốm gia dụng, từ đồ đựng đến đồ dùng ăn uống, ngoại trừ một vài loại dùng cho tín ng­ưỡng tôn giáo như­ lọ kendi, lư hư­ơng. Nhiều loại hình tạo theo kiểu dáng truyền thống như­ âu, ang hình cầu, chén, hộp, lọ các loại nh­ưng cũng xuất hiện những loại hình mới độc đáo như: ấm hình rồng, phư­ợng, thú hay quả đào, bình và ấm hình tỳ bà, tư­ớc, bình phỏng dáng mai bình, hộp hình cua cá. Trong số này cũng có những loại hình mang đậm ảnh h­ưởng về tạo hình của gốm sứ Nguyên – Minh (Trung Quốc).

Về trang trí trên đồ gốm s­ứ Cù Lao Chàm gây ấn t­ượng nhất là dòng hoa lam, hoa lam kết hợp với vẽ nhiều màu trên men qua lần nung thứ 2 như­ trên đĩa, bát, kendi, lọ tỳ bà (Yuhuchun), chén quả đào, tư­ợng ngư­ời, hộp… Dòng gốm hoa lam của Việt Nam ở thế kỷ 15 đặc biệt phát triển với 2 cách thể hiện:

– Vẽ chi tiết, nét mảnh, những người s­ưu tầm gốm Việt Nam gọi là “pake”.

– Vẽ thoáng với nét đậm.

Tùy theo từng chủng loại gốm mà ta thấy tài khéo của ng­ười sản xuất.

Gốm hoa lam còn kết hợp với trang trí vàng kim. Thí dụ loại tỳ bà cao khoảng 101/4 inches (26cm) ngoài các đề tài hồi văn, mây và sóng n­ước còn có 3 lớp trang trí nổi ô hình lá đề, bên trong là chim vẹt và cành lá, kỳ lân.. Đây cũng là lần đầu tiên, gốm Việt Nam xuất hiện kỹ thuật trang trí mới lạ, đặt ra câu hỏi: Trang trí vàng kim, nguồn gốc và kỹ thuật ở Việt Nam?

Cũng trong đồ gốm Cù Lao Chàm còn thấy một số loại hình phủ men xanh cobalt sau đó vẽ vàng kim. Đáng kể là loại bát gốm men trắng mỏng, trong lòng trang trí in nổi hoa mai dây hay in nổi hình rồng mây và sóng nước. Loại bát này có x­ương rất mỏng, nhiều chiếc thấu quang đạt tiêu chuẩn đồ sứ. Ngoài phát hiện trong tàu Cù Lao Chàm ở Việt Nam còn được tìm thấy ở lò gốm Chu Đậu (Hải Dư­ơng), Hoàng thành Thăng Long và Lam Kinh (Thanh Hóa)…

Đồ gốm sứ trong tàu Cù Lao Chàm đã gây nhiều bất ngờ cho giới nghiên cứu gốm sứ Việt Nam cả trong và ngoài n­ước, và chắc chắn sẽ còn được bàn thảo, công bố nhiều hơn nữa.

Chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này có kích thước lớn nhất, với chiều cao: 56,5cm và đường kính miệng: 23,8cm.

Bình có dáng búp sen, miệng loe tròn, gờ miệng phẳng. Thân phình thuôn dần xuống đáy. Từ miệng, cổ và thân bình đều được vẽ trang trí hoa lam bao gồm 7 băng hoa văn: hoa dây, cánh sen kép trong có xoắn ốc, vân mây dải hình khánh, phong cảnh, cây hoa lá, sóng nước, lá đề xen kẽ bốn chim Thiên Nga với các tư thế bay đậu khác nhau, theo chủ đề phi minh túc thực. Với bốn tư thế của thiên nga trong khung cảnh cây cỏ, khóm tre mang đặc điểm riêng không hề giống với đề tài này trong trang trí trên đồ gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản.

Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga

Về nguồn gốc sản xuất chiếc bình gốm hoa lam này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng từ khu lò gốm Chu Đậu, nơi đã có nhiều cuộc khai quật khảo cổ học của Bảo tàng Hải Dương phối hợp với các chuyên gia nghiên cứu Australia.

Làng gốm Chu Đậu (nay thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) là một trung tâm sản xuất gốm lớn nhất của đất nước ta ra đời vào thế kỷ 14 và phát triển rực rõ nhất vào thế kỷ 15-16. Làng gốm Chu Đậu sản xuất những loại gốm cao cấp, gốm mỹ nghệ, phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Dòng gốm Chu Đậu có sự kết hợp nhiều kỹ thuật trang trí như đắp nổi, chạm, dán ghép, khắc chìm, vẽ lam, vẽ nhiều màu và vàng kim trên men. Các loại men sử dụng với nhiều sắc độ khác nhau như: men trắng vẽ lam, men nâu, xanh lục, men ngọc, men trắng vẽ tam thái hoặc kết hợp vẽ vàng kim trên men. Tuy nhiên, cho đến nay còn có ý kiến của TS.Bùi Minh Trí (Trung tâm nghiên cứu kinh thành) cho rằng chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này được sản xuất từ khu vực lò gốm của kinh thành Thăng Long (Hà Nội).

Với chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này, từ kiểu dáng, kích thước cho đến trang trí là một minh chứng đỉnh cao của dòng gốm hoa lam. Những đề tài trang trí ở đây chẳng những đã thoát ra khỏi khuôn mẫu của đề tài kinh điển Trung Hoa mà còn được thể hiện tính phóng khoáng, sáng tạo, đậm chất dân gian, hồn quê đất Việt vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Qua những đề tài thể hiện trên bình gốm cho ta hình dung về một vẻ đẹp của quê hương đất nước Việt Nam thời Lê sơ tk 15, một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á thời bấy giờ.

Chiếc bình gốm này xứng đáng là một tác phẩm gốm nghệ thuật độc đáo, vật chứng tiêu biểu của nghề gốm truyền thống Việt Nam ở thế kỷ 15.

Kể từ khi nhập về kho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đến nay chiếc bình này đã được giới thiệu trong nhiều cuộc trưng bày chuyên đề ở trong và ngoài nước. Trên cơ sở giá trị đặc biệt quý hiếm của chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1426/QĐ-TTg ngày 1/10/2012 công nhận là bảo vật Quốc gia đợt 1 cùng với 30 hiện vật, nhóm hiện vật lựa chọn trong khối di sản văn hóa Việt Nam.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tìm hiểu về gốm minh văn triều Mạc qua sưu tập chân đèn ở BTLSQG

Triều Mạc là một triều đại để lại nhiều dấu ấn về phát triển kinh tế, văn hóa… Sự phát triển này được thể hiện trên nhiều phương diện, trong đó nổi bật là nghề làm gốm với loại hình đồ gốm có minh văn rất độc đáo. Minh văn trên đồ gốm là một nguồn tư liệu quý, cung cấp cho chúng ta thông tin về họ tên, quê quán của người thợ sản xuất; họ tên của những người đã đặt hàng, từ những tầng lớp trên như công chúa, phò mã tới tầng lớp bình dân.

Gốm có minh văn hầu hết là đồ thờ cúng như: chân đèn, lư hương, tượng thờ. Những minh văn trên gốm thờ còn khắc tên các ngôi chùa, quán và đề tài trang trí chủ yếu là rồng, phượng, lá đề, hoa sen, cánh sen…. Điều này được minh chứng rất rõ qua sưu tập chân đèn gốm có minh văn trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tiếp nối sự phát triển gốm thời kỳ trước đó, đến triều Mạc thì nghệ nhân gốm hội tụ đầy đủ yếu tố cho sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo, để làm ra những chân đèn gốm kiểu dáng mới, nghệ thuật và kỹ thuật trang trí theo lối riêng, mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế với những loại hình mang tính mỹ thuật cao. Đây là loại hình gốm mỹ thuật đặc sắc về tạo hình, để lại nhiều tên tuổi nghệ nhân giỏi như: Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương); gia đình Đỗ Phủ ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm; Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương …

Chân đèn gốm triều Mạc khá phong phú về kiểu dáng, màu men (chủ yếu gốm hoa lam, lam xám) được nghệ nhân tạo tác với hầu hết các kỹ thuật như chuốt, tạo dáng trên bàn xoay. Sản phẩm được thực hiện trên nhiều công đoạn khác nhau, phức tạp và tỉ mỉ. Các bộ phận của chân đèn được chia thành nhiều phần khác nhau, lắp ghép lại, sau đó được gia công thêm bằng cách nặn, đúc, đắp nổi, vẽ các dạng hoa văn, hình tượng. Và đặc biệt, trên loại sản phẩm gốm này còn được thể hiện rất nhiều minh văn, đem lại cho chúng một giá trị lịch sử cũng như giá trị về phong cách tạo hình một cách chính xác.

Để thể hiện các bài minh trên gốm, các nghệ nhân xưa thường dùng lối khắc chữ, viết bằng men lam dưới men trắng, in đắp nổi chữ hoặc kết hợp giữa các phương pháp này với nhau. Nếu là khắc hoặc đắp nổi thì thường là khắc chữ sau khi đã phủ men, đôi khi cũng có trường hợp khắc chữ dưới men (có nghĩa là chữ được khắc trên xương gốm sau đó phủ men). Kiểu chữ dù viết, khắc hay đắp nổi đều dùng lối chữ chân phương. Đối với chân đèn, minh văn thường được thể hiện trước đầu rồng ở thân trên thuộc phần dưới các chân đèn và kéo dài dọc các cánh sen đứng ở thân dưới. Còn với lư hương, minh văn thường được khắc ở các dải quai, quanh miệng hoặc chân đế, khắc xung quanh cổ hoặc khắc quanh đế.

Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử quốc gia trưng bày chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành năm thứ 3 (1580). Chân đèn gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và 2 đoạn dưới hình cái loa cách nhau bằng đường gờ nổi để mộc; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi để mộc 2 cặp phượng múa ở phần trên; băng lá đề kép ở vai và hình rồng vờn ngọc ở thân, kết hợp vẽ lam hoa và mây trong băng cánh sen dưới miệng, mây quanh rồng phượng; cánh sen dài trong có dải xoắn ốc, băng hoa cúc dây trên đế. Men phủ màu trắng ngà.

Chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành 3 (1580)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 24, tháng 6, niên hiệu Diên Thành 3 (1580) và do nghệ nhân Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu, ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng chế tạo. Minh văn còn cho biết Đại sĩ Ngạn Quận công Mạc Ngọc Liễn, vợ là trưởng công chúa Phúc Thành cùng với 74 sãi vãi thuộc 2 xã Lưu Xá và Đặng Xá, đặt làm chân đèn đẻ cung tiến vào quán Linh Tiên (xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ).

Bên cạnh đó, chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và đoạn 2 và 3 hình loa, cách nhau bằng đường gờ nổi tô nâu; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi 2 mặt hổ phù ở phần trên; trang trí vẽ lam, xung quanh đoạn miệng chia dọc nhiều dải chữ nhật, vẽ hoa. Đoạn 2 và 3 vẽ 2 cặp phượng múa. Phần dưới, vai vẽ băng lá đề bên trong vẽ nửa bông hoa. Thân trên vẽ rồng mây, thân dưới vẽ cánh sen đứng, trong vẽ các dải xoắn đôi. Chân đế vẽ băng chữ V lồng, lá đề và dây lá hình sin. Men vẽ phủ màu xanh đen, men phủ màu trắng xám.


Chân đèn gốm lam xám, triều Mạc, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 1 tháng 4, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) và do nghệ nhân Đỗ Xuân Vi ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An chế tạo. Minh văn còn cho biết các sãi vãi ở xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng công tạo bình hoa cúng dưỡng chùa Quan Âm (xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng) làm vật Tam bảo.

Đặc biệt, chân đèn gốm men lam xám và nâu, thời Mạc, tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588) là hiện vật độc đáo. Chân đèn gồm 2 phần, phần trên tạo dáng một bông hoa sen nở, trang trí rồng đuổi, rồng uốn. Phần dưới có vai và thân phình chạm nổi băng cánh sen bên trong có bông hoa. Thân trên chạm nổi 4 rồng “yên ngựa” trong khung viền hình nhĩ bôi. Thân dưới chạm nổi băng cánh sen đứng bên trong có hình rồng nổi. Chân đế chạm nổi răng cưa, vạch đứng song song, cánh hoa bên trong có bông hoa. Men phủ màu lam xám, tô men nâu trên 2 tai rồng và dải quai.

Minh văn trên chân đèn cho biết niên đại tuyệt đối cũng như họ tên nghệ nhân chế tạo ra nó. Dọc theo thân trên có khắc 2 dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4, đời vua Mạc Mậu Hợp (1588) và do nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) chế tạo.

Các nhà nghiên cứu đánh giá, trong các loại hình đồ gốm có minh văn ở triều Mạc thì đèn gốm chiếm số lượng nhiều nhất. Những người thợ gốm đua tài bằng cách làm ra nhiều cây đèn chân cao, kích thước lớn, trang trí phức tạp. Nhìn hình dáng bề ngoài thì chân đèn gốm giống như những chiếc bình cắm hoa nhưng thực tế lại dùng để đặt đĩa đèn dầu lạc hay đĩa hoa trên miệng bình phục vụ cho cúng lễ. Chân đèn gốm thời Mạc đẹp hơn các thời khác, nó trở thành thước chuẩn để đánh giá phần nào phong cách của mỹ thuật thời Mạc.

Qua so sánh nhiều tác phẩm đồ gốm, Đặng Huyền Thông được các nhà nghiên cứu đánh giá là nghệ nhân gốm xuất sắc triều Mạc, tiêu biểu cho đỉnh cao của nghệ thuật gốm thời Mạc. Tạo hình tác phẩm của ông mang phong cách rất riêng: trang trí hoa văn trên các tác phẩm gồm nhiều đề tài như hoa sen, hoa cúc, hoa dây, hình rồng, hình học… với rất nhiều bố cục khác nhau. Đề tài tứ linh không được sử dụng trong trang trí mà chỉ có hình rồng, với 15 kiểu rồng nổi khác nhau (rồng nổi kiểu “yên ngựa”, rồng uốn trong cánh sen, rồng uốn trong hình lá đề, rồng uốn trong hình tròn, rồng đuổi…). Các hoa văn hình học như băng răng cưa, vạch thẳng song song… được coi là nối tiếp phong cách truyền thống văn hóa Đông Sơn…

Bên cạnh đó, trên đồ gốm do ông chế tạo, minh văn còn cho biết tên thật của ông là Đặng Mậu Nghiệp tự là Huyền Thông. Ông là sinh đồ, người đã thi đỗ tam trường, làm thợ gốm, quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Những thông tin về tác giả Đặng Huyền Thông không chỉ thấy trên đồ gốm mà còn trên minh văn bia chùa An Định (Hải Dương) quê hương ông. Nội dung văn bia cho biết: Chùa An Định xưa đã bị mai một. Trong xã có Đặng Mậu Nghiệp tên chữ là Đặng Huyền Thông, cùng vợ là Từ Am Nguyễn Thị Đỉnh kết hợp với nhiều vương công và đông đảo người hảo tâm trong xã huyện đứng ra hưng công dựng chùa, tạc tượng. Bia lập vào niên hiệu Đoan Thái 3 (1587). Người soạn văn bia này chính là Đặng Huyền Thông.

Như vậy, qua sưu tập gốm minh văn triều Mạc thế kỷ 16 cho thấy dòng gốm mang nét riêng độc đáo góp phần làm phong phú kho tàng gốm cổ Việt Nam. Hơn nữa, các thông tin trên minh văn đồ gốm góp phần minh chứng thời kỳ phục hưng Phật giáo ở Việt Nam trong thế kỷ 16.

Nguồn: BTLSQG

Gốm Thổ Hà và sản phẩm lư hương đặc trưng

Thổ Hà là làng gốm thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Theo một số tài liệu lịch sử, nơi đây đã từng là một trong 3 trung tâm gốm cổ xưa của người Việt. Làng Thổ Hà, là một làng cổ điển hình ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm trên bờ sông Cầu, có đường giao thông rất thuận tiện. Có lẽ, chính sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân nơi đây xây dựng nên một quần thể kiến trúc đình, chùa, văn chỉ, cổng làng bề thế, uy nghi.

Gốm Thổ Hà có nét riêng đặc biệt, đó là loại gốm không có men, nung ở nhiệt độ cao tạo ra sành với nhiều sắc độ màu đen, màu nâu, màu cánh gián hay màu đỏ gạch. Đây cũng là dòng gốm dân gian truyền thống không tham gia xuất khẩu mà chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước, tương tự như gốm Phù Lãng. 

Dưới đây là hai chiếc lư hương được sản xuất vào thế kỷ 17 – 18 mang màu sắc và phong cách đặc trưng của gốm Thổ Hà với những đường nét hoa văn được chạm, đắp nổi khá tỉ mỉ, chi tiết.

 

Lư tạo dáng hình trụ đứng, viền miệng hình chữ nhật. Mặt trước viền miệng và thân đắp nổi đề tài lưỡng long chầu nhật có vân mây bay quanh. Ở giữa khắc nổi hình long mã ngoảnh mặt lại phía sau, phía dưới chạm thủng đề tài hoa, lá sen. Mặt sau trang trí chữ thọ theo thể chữ triện đặt trong khung hình chữ nhật. Lư gồm 06 chân tạo độ vững chắc, 02 cạnh trang trí hoa văn gấp khúc, lư có màu đỏ gạch.

Kích thước: Đường kính miệng: 19,7 x 15,2 cm; chiều cao: 51 cm; đáy: 24 cm. 

 

Lư tạo dáng hình trụ đứng, mặt trước đắp nổi đề tài lưỡng long chầu nhật và hình ảnh tứ linh. Mặt sau khắc nổi chữ thọ theo thể chữ triện đặt trong khung hình vuông. Lư gồm 06 chân, 02 cạnh đế trang trí hoa văn gấp khúc.

Đường kính miệng: 24 x 13,3 cm; chiều cao: 43 cm; đáy: 21 cm

 

 

Những loại cổ vật Việt Nam là duy nhất trên thế giới

Jean Francois Hubert, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, cổ vật Việt Nam, mỹ thuật Việt Nam, văn hóa Chămpa… đã dành cho TTCT một cuộc trao đổi về cổ vật Việt Nam.

Mở đầu cuộc phỏng vấn về Việt Nam, ông Hubert cho biết: “Tôi vô cùng ấn tượng về đồ gốm Việt Nam. Những chiếc ấm, thạp thời Lý – Trần hay bình vôi, chum, hũ thời Lê… cả hình dạng, phong cách, họa tiết trang trí thì không lẫn vào đâu được. Tôi thường nói đùa những đồ vật này là 300%, thậm chí 500% là cổ vật Việt Nam, với nhiều đặc trưng mà đồ gốm các nước khác, kể cả Trung Quốc không hề có. Những dấu hiệu trên những cổ vật ấy mang dấu ấn của hội họa trừu tượng. Cách đây 10 thế kỷ mà người Việt đã nghĩ ra những họa tiết như vậy thì rất ngạc nhiên. Đối với tôi, những đồ gốm thời Lý – Trần là tuyệt tác. Văn hóa Đông Sơn độc đáo và duy nhất trên thế giới, xứng đáng để chúng ta tiếp tục đào sâu nghiên cứu nhiều hơn nữa. Trong khi đó, người Trung Quốc khi viết về văn hóa Đông Sơn thì thường xem nền văn hóa này như một bộ phận của văn hóa Quảng Tây. Phía Trung Quốc, vẫn có những cuộc triển lãm về đồ Đông Sơn của Việt Nam và ghi chú giải thích bên dưới đó là thuộc văn hóa Trung Quốc. Theo tôi, nền văn hóa này là của Việt Nam 100%”…

* Thưa ông, cổ vật ở Việt Nam hiện đang thật giả lẫn lộn, không chỉ đồ giả mà còn làm giả trên chính đồ thật. Là một chuyên gia, ông làm thế nào để phát hiện sự thật – giả này? Có cách nào để phòng tránh?

Ở Việt Nam, một số thợ gốm ở Bát Tràng, thợ điêu khắc đá ở Đà Nẵng hay thợ đúc đồng ở Thanh Hóa… làm đồ giả cổ rất giỏi. Họ phỏng theo đồ thật và làm đồ giả giống như thật. Có trường hợp ở Thanh Hóa, người ta làm đồ giả cổ, phết thêm một lớp “ten” đồng của đồ thật ở bên ngoài rồi hô hoán đào được trong lòng đất, rồi có người đứng ra làm chứng hẳn hoi… Thật ra ở Quảng Tây (Trung Quốc) cũng có chuyện làm giả như vậy chứ không riêng gì ở Việt Nam.

Muốn phân biệt thật – giả trước tiên phải xem xét dấu vết thời gian đọng lại trên hiện vật. Công việc này chúng tôi làm hằng ngày và trong nhiều năm nên đã đúc rút thành kinh nghiệm để nhận diện. Muốn giám định đúng hiện vật phải thường xuyên tiếp cận, cọ xát từ ngày này sang ngày nọ, rất cần mẫn, công phu và mất nhiều thời gian. Với nghề này, càng tiếp cận nhiều với hiện vật càng dễ đi đúng hướng.

Thật ra trên thế giới chỉ có khoảng năm hay sáu người thật chuyên, thật giỏi, có thể hiểu được tường tận một số đồ vật. Nhưng trên thế giới cũng có những kẻ lừa đảo rất giỏi, có thể tồn tại trong nghề giả cổ này đến 20 năm.

Tôi học được rất nhiều từ những nhà sưu tập Việt Nam. Họ khá lạ, có người trong 20 năm ròng chỉ mân mê đồ vật mà tích lũy kinh nghiệm chứ không học từ sách vở hay trường lớp nào như các nhà giám định ở phương Tây. Lâu ngày tự nhiên có kiến thức, phân biệt rất già dặn. Họ kinh nghiệm đồ đồng Đông Sơn thật sẽ rất nhẹ. Còn tượng Chămpa thật nếu búng vào thì có tiếng “lanh canh, long cong”. Chỉ cần nhấc một tượng Phật gỗ Phù Nam lên, người giỏi biết ngay thật – giả.

Đừng nghĩ rằng chỉ ở Việt Nam mới có nhiều đồ giả mà ngược lại phương Tây còn nhiều hơn. Thực trạng cổ vật ở Việt Nam cho thấy đó là một gia tài đồ sộ, và nghiên cứu của chúng ta về gia tài này thì chưa tới đâu.

* Ông có lời khuyên nào đối với người chơi cổ vật Việt Nam?

Nếu lao vào cuộc chơi này trước tiên nên tin tưởng ở mình và tự học, nên trực tiếp, thường xuyên tiếp xúc với hiện vật. Nên đến các phòng triển lãm hoặc viện bảo tàng để xem và sau đó là tìm sách để đọc. Ở Việt Nam có nhiều cuốn sách viết về cổ vật rất tốt, nhiều công trình biên khảo về đồ gốm rất có giá trị.

Người chơi cũng nên chọn thái độ lương thiện, liêm sỉ trong cuộc chơi, vừa nhũn nhặn để học tập, nuôi cho mình sự đam mê mới đi được xa. Theo tôi, phải mất ít nhất 15 năm mới biết mình có trụ vững trong nghề hay không. Tất nhiên, khi đạt đến trình độ bình phẩm về cổ vật mới được coi là người có nghề. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu sâu trong một thời gian dài.

Ngày xưa Henri Parmentier khởi đầu bằng việc khai quật ở Mỹ Sơn. Xem lại những cuộc khai quật tương tự, so với thế giới thì đúng là nước Pháp đi trước các nước khác cả 30 năm nhưng sau đó thì chững lại. Những viện bảo tàng Pháp sau những bước đi đầu rất đẹp, chỉ ôm khư khư những hiện vật cổ, cho đến nay chậm hơn không dưới 30 năm so với nhiều bảo tàng trên thế giới.

Từng có những sự kiện chấn động ở Pháp khi một chuyên gia về Chămpa công bố những khám phá mới và được giới nghiên cứu lắng nghe. Nhưng sau đó mới lòi ra đó là những món đồ sao chép khiến người ta rất hoang mang. Vì thế, nếu chỉ nghiên cứu lý thuyết trong một thời gian dài mà không sờ đến hiện vật sẽ không phân biệt được thật – giả và sẽ có nhiều lỗ hổng trong giám định…

* Người Việt Nam đang có xu hướng giảm chơi đồ gốm Trung Quốc mà chuyển sang chơi đồ gốm Việt Nam. Ông đánh giá điều này như thế nào?

Trước tiên phải thừa nhận đồ gốm Trung Quốc số lượng rất lớn và có lẽ mang một “thiên chức vương giả”. Đồ càng đẹp, càng uy nghi thì người Trung Quốc càng trọng. Trong khi đó người Việt Nam và Nhật Bản khi xem xét hiện vật thường có khuynh hướng nhân văn hơn, thường đặt trong một bối cảnh có nhiều mối tương quan với đất đai. Gặp những món đồ có vết rạn, người Trung Quốc thường vứt bỏ.

Người Việt Nam và Nhật Bản thì giữ lại. Họ thấy trong đó có hình ảnh, tiếng nói của đất. Tôi cảm thấy người Pháp chúng tôi cũng có tương quan về đất đai như thế nhưng ở tầm mức ít sâu sắc hơn. Điều này không hiểu sao ở người Việt lại mãnh liệt đến mức kỳ lạ. Theo tôi, trong 30 năm tới đây xu hướng này sẽ rõ nét hơn, và giới sưu tầm trên thế giới sẽ nghiêng hẳn về xu hướng này.

* Ở Việt Nam mới chỉ có các cuộc đấu giá cổ vật nghiệp dư và tự phát. Theo ông, vì sao Việt Nam chưa có sàn đấu giá cổ vật? Phải chăng do luật pháp không đầy đủ, do người Việt không có kinh nghiệm hay do sức hút của thị trường kém?

Không riêng gì Việt Nam mà nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Philippines… cũng không có sàn đấu giá. Đấu giá cổ vật là một sự bảo đảm tính thật – giả rất tốt cho hiện vật. Nhưng chính vì tính phức tạp và cơ chế đấu giá cổ vật ở Việt Nam chưa rõ ràng cho nên người ta chưa tổ chức được. Trong cuộc bán đấu giá không thể phỉnh gạt, làm mờ mắt ai được. Đem một cái thố ra bán phải kèm theo bảo hiểm, rồi phê bình, miêu tả rất đầy đủ, từ xuất xứ, niên đại, tính chất, đặc điểm, rồi định giá…

Điều tôi thích ở các cuộc đấu giá là mọi chuyện xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, từ kẻ bán người mua cho đến giá cả, sự thật – giả… Chính vì vậy mà cuộc đấu giá có nhiều thủ tục phức tạp khiến nó chưa thể thực hiện ở Việt Nam. Các hãng đấu giá lớn trên thế giới cũng từng gặp những phiền toái như thế.

Có trường hợp khách hàng đưa 10 hiện vật đến hai hãng Christie’s và Sotheby’s để đấu giá. Qua thẩm tra, khảo cứu, các hãng đấu giá chỉ chọn được hai món để đưa ra đấu giá và cất đi tám món. Sau đó, hãng đấu giá trả lời rất khéo rằng họ chỉ bán được hai món. Vì thế, đôi khi những người có cổ vật bị từ chối thì sinh lòng trách giận hãng đấu giá.

* Dự đoán của ông về thị trường đấu giá cổ vật của Việt Nam?

Tôi chưa nhìn ra được thị trường này, kể cả trong nhiều năm nữa. Hai hãng đấu giá lớn là Christie’s và Sotheby’s đã suy nghĩ về việc này hơn 10 năm nay nhưng chỉ mới khởi đầu trong một vài năm gần đây. Muốn làm được điều này sẽ phải vượt qua nhiều quy định rất phiền phức của chính quyền sở tại. Rồi hiện tượng dối trá, lọc lừa.

Người ta ít khi nghĩ đến những khoản lợi nhuận vô cùng lớn mang lại cho quốc gia nếu làm được điều này mà cứ nghĩ đây là trò tiêu khiển của một nhóm người, do đó chưa đặt sự việc đúng tầm mức.

Việt Nam các bạn tương tự Pháp và Ý, là những xứ sở có nền văn hóa rất cao. Những giá trị của nền văn hóa như thế này là độc nhất vô nhị. Nhiều khi tôi cũng tự hỏi không biết người Việt Nam có nhận ra được điều đó không. Tôi nghĩ người Việt Nam bây giờ phải nghĩ cách tái chinh phục văn hóa của nước mình. Có thể nói văn hóa Việt Nam như khoáng sản, chẳng khác dầu mỏ mà chưa ai biết cách khai thác để làm giàu.

* Theo ông, vị trí và giá trị của cổ vật Việt Nam đang ở đâu trên thế giới?

Trên thị trường thế giới, cổ vật Việt Nam không được quan tâm như hội họa, vốn có vị trí cao và đang tiếp tục vươn lên. Cổ vật Việt Nam, những đồ Đông Sơn có tiếng tăm cũng chưa nhiều, đó là chưa kể những cổ vật đích thị của Việt Nam nhưng lại bị Trung Quốc nhìn nhận của họ. Từ những năm 1995 – 1996 tôi có tổ chức một số triển lãm và đấu giá cổ vật Việt Nam, nhưng giá cả nhìn chung không cao lắm. Trong khi đó, vị trí và giá cả của hội họa Việt Nam đã tăng lên cao trong tổng thể hội họa châu Á.

Nguồn: Cuộc phỏng vấn do THÁI LỘC – TRẦN ÐỨC ANH SƠN thực hiện

Tg: Chắc chắn nội dụng cuộc phỏng vấn sẽ gợi cho các chuyên gia, những người chơi và yêu thích cổ vật Việt Nam nhiều suy ngẫm…

Gốm: Tóm tắt nhanh qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam

Lịch sử gốm Việt Nam trải qua một bề dày thời gian từ văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn cách ngày nay khoảng 10.000 năm. Nối tiếp là gốm Phùng Nguyên với các họa tiết hoa văn hình chữ S. Đây là tiền đề cho trang trí hoa văn trên đồ đồng trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Khi nước ta bị phong kiến phương Bắc xâm lược 10 thế kỷ thì gốm bị kìm hãm phát triển. Đến giai đoạn độc lập, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê (Lê sơ), Mạc, Tây Sơn, Nguyễn gốm nước ta lại bùng lên phát triển và nổi tiếng trên thế giới.

Gốm thời tiền sử

Tìm thấy trong văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn (15.000 – 10.000 năm cách ngày nay). Được nặn bằng tay, miệng loe, thân thẳng hoặc phình, trang trí hoa văn khắc vạch.

Gốm thời sơ sử

Trong văn hóa Phùng Nguyên gốm được làm bằng bàn xoay, tạo các hình đơn giản như hũ, vò, chum. Có hoa văn trang trí rất phong phú, đa dạng như văn chải mịn, khắc vạch song song, chấm dải, uốn lượn hình sóng nước, có dấu vết đan lát. Tạo dáng gốm Phùng Nguyên thường có miệng loe, thân phình, đáy tròn, có văn thừng trên miệng, chân đế cao.

Sang văn hóa Đông Sơn gốm có các tạo hình kế tiếp từ thời Phùng Nguyên, miệng loe, thân phình; trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn hình chữ S là chủ yếu.

Gốm thời kỳ Bắc thuộc

Hiện vật tiêu biểu là các vò, hũ nhỏ, có một lớp men mỏng nhưng không phủ hết. Màu men vàng nhạt hoặc xám nhạt. Hoa văn trang trí vẫn phảng phất nối tiếp trang trí từ văn hóa Đông Sơn như chữ S, hình thoi, vòng tròn tiếp tuyến, răng lược, chấm dải, văn chải dọc, văn thừng.

Gốm Việt Nam thời độc lập

Thời Đinh – Tiền Lê:

Chủ yếu là vật liệu xây dựng và trang trí kiến trúc, gạch trang trí hoa sen, hoa phượng. Xương gốm nặng, trong lòng bát đĩa thường có dấu chân kê lớn hình chữ thập.

Thời Lý – Trần:

Hiện vật đa dạng, phong phú về cả chủng loại và màu men. Bốn dòng men tiêu biểu là men trắng, men xanh lục, men nâu và men trắng vẽ hoa nâu. Hoa văn trang trí chủ đạo là sen và cúc.

Thời Lê sơ:

Nổi tiếng với dòng hoa lam, được vẽ bằng ôxit cô ban. Nét vẽ phóng khoáng theo cảm xúc, tạo ra độ đậm nhạt, dày mỏng, màu men sinh động, mềm mại. Hoa văn trang trí: Vẫn là hoa cúc, hoa sen, sóng nước, chim, cá.

Thời Mạc:

Nổi tiếng với dòng men nhiều màu, tam thái, ngũ thái. Hoa văn trang trí gồm hoa cúc, hoa sen, hoa phù dung, cúc dây, khóm cỏ, rong rêu, lá đề, sóng nước, vảy cá, phượng, ngựa, chim, vẹt, sư tử. Hai loại hình hiện vật tiêu biểu được biết đến là chân đèn và lư hương.

Thời Lê – Trịnh:

Với các làng gốm nổi danh như Thổ Hà, Bát Tràng, Hương Canh, Phù Lãng, Hiếu Lễ. Hiện vật phong phú đa dạng gồm chậu lớn, đỉnh, mô hình nhà tháp men nhiều màu, lư hương hình bông sen. Hoa văn trang trí gồm hoa sen, cúc, phù dung, các loại chim, sen vịt, sen trúc, sóng nước kết hợp với mây tản.

Thời Nguyễn:

Có đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, gốm trang trí kiến trúc, xây dựng lăng tẩm. Men rạn trắng ngà và men trắng hoa lam thời kỳ này vẫn phát triển. Bên cạnh đó có thêm men đá, trắng đục (gốm Cậy), men xanh xám, da lươn, đỏ sậm (Phù Lãng). Hoa văn trang trí chủ yếu là tứ quý.

 

 

 

Tư tưởng Phật giáo trên cổ vật thời kỳ Lý – Trần

Nhà nước Lý – Trần tôn chuộng đạo Phật, Phật giáo được xem là quốc giáo. Chính vì vậy, biểu tượng của Phật giáo không chỉ xuất hiện trên các hiện vật gốm xây dựng, trang trí kiến trúc chùa, tháp, mà nó còn được biểu hiện vô cùng phong phú trên loại hình gốm gia dụng với các đồ dùng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày như bát, đĩa, âu, hũ, chum, thạp v.v..

Nếu hoa sen biểu trưng cho sự thanh cao, thanh tịnh của Phật giáo, cá biểu tượng cho sự giàu có, phồn thịnh. Thì sự kết hợp 2 biểu tượng này trong cùng một đồ án trang trí trên chiếc đĩa men xanh lục thời kỳ này như muốn truyền tải đi thông điệp về một xã hội thịnh vượng với tư tưởng và giáo lý Phật giáo xuyên suốt, bao trùm lên mọi mặt trong đời sống sinh hoạt của người dân.

Bát men xanh lục trang trí đề tài sen – cá rất tỉ mỉ, tinh tế

Lá đề tượng trưng cho sự báo hiệu, nhắc nhở, giác ngộ Phật pháp là cấu kiện gắn trên ngói nóc dùng để trang trí phần mái các công trình kiến trúc. Hình tượng rồng trong lá đề thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa uy quyền của nhà vua và uy linh của đức Phật. Hình tượng rồng với những chi tiết biểu trưng cho Phật giáo như lông mày tạo hình số 3 nằm ngửa, giống với nhãn vòng kim cô của nhà Phật, phía trước trán có hình chữ S đứng, ký hiệu của tia chớp, thể hiện uy lực của Phật Pháp Lôi – Pháp Điện trong Mật Tông. Khác với con rồng vần vũ của Trung Hoa, rồng thời Lý được tạo theo hình sin, uốn lượn đều đặn biểu hiện tính nhịp điệu luân hồi trong tư duy của người Việt. Cách tạo hình này vẫn kéo dài đến thời Trần, chỉ bổ sung thêm một vài chi tiết ở chân và vẩy.

Lá đề biểu trưng cho sự báo hiệu, nhắc nhở của Phật giáo

Nếu nói tới hoa sen là nghĩ về Phật pháp, thì khi nhắc về hoa cúc như một biểu tượng của nguồn sáng, nhiều khi được ví với mặt trời đó là một biểu hiện về tín ngưỡng quen thuộc của cư dân nông nghiệp Việt [Trần Lâm Biền, Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, tr.187]. Hoa cúc xuất hiện cùng hoa sen như một cặp âm dương, nếu hoa sen xuất hiện từ bùn lầy và vươn lên bằng sự tỏa sáng của thái âm (mặt trăng) thì hoa cúc rực rỡ, tỏa hương thơm như vầng thái dương. Sen và cúc đã thay nhau làm điểm nhấn của mỹ thuật Lý – Trần, truyền đi tư tưởng Phật giáo bao trùm lên mọi mặt ở giai đoạn này.

Cánh hoa cúc được vuốt thành các đường gờ nổi trong lòng bát

Gốm hoa nâu thời Trần với cách vẽ màu nâu dưới men

Gốm hoa nâu là dòng gốm cổ Duy nhất chỉ có tại Việt Nam.

Gốm hoa nâu đã được các học giả trong và ngoài nước đánh giá là dòng gốm cổ duy nhất chỉ có tại Việt Nam. Gốm hoa nâu xuất hiện từ cuối thế kỷ XII (thời Lý) nhưng phát triển rực rỡ nhất vào thế kỷ XIII – XIV (thời Trần).

Đa số gốm hoa nâu thời Trần được tạo bằng kỹ thuật cạo xương gốm khi mới phủ men nền để tạo đồ án trang trí. Sau đó người thợ dùng bút lông vẽ hoa văn màu nâu trên phần đã được cạo. Men phủ trên nền gốm trắng ngà thường bị rạn hay nứt tạo thành những mảng vân rạn tự nhiên. Điều này làm cho hiện vật trở lên độc đáo và có tính thẩm mỹ cao.

Thạp gốm hoa nâu được tìm thấy ở Thanh Hóa

     Thạp gốm hoa nâu thời Trần

Thạp gốm hoa nâu được trang trí bằng phương pháp cạo men rồi tô nâu

Tuy nhiên, ngoài cách trang trí phổ biến là cạo men rồi tô nâu nói trên. Gốm hoa nâu thời Trần còn có cách trang trí khác là vẽ hoa văn màu nâu dưới men.


Chum gốm hoa nâu được trang trí bằng phương pháp vẽ màu nâu dưới men

Lượng màu nâu được vẽ bằng bút lông, loãng và mỏng trên chum đã tạo ra độ đậm nhạt khác nhau, khi sờ vào khoảng trang trí màu nâu này ta thấy trơn và nhẵn bóng, nhất là khi đưa ra ánh sáng ta sẽ thấy điều này được khẳng định rõ ràng hơn. Hiện tượng này rất ít gặp nhưng đã cho chúng ta biết được rằng các nghệ nhân lúc này đang muốn tìm một phương pháp trang trí khác trong việc trang trí để tạo hiệu quả mới tốt hơn trong sản xuất gốm, tạo tiền đề cho sự ra đời dòng gốm hoa lam nổi tiếng thời Lê sơ sau đó.