Tag Archive | thợ gốm

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Phùng Nguyên

Đỉnh cao của hoa văn gốm Phùng Nguyên chính là những đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải phức tạp, đối xứng sinh động!

Hơn 50 năm qua, công cuộc nghiên cứu về văn hóa Phùng Nguyên đã đạt được những thành tựu xuất sắc. Việc phát hiện và n  ghiên cứu văn hóa Phùng Nguyên không chỉ làm sống dậy một nền văn hóa sơ kỳ thời đại kim khí phát triển rực rỡ suốt nhiều thập kỷ mà còn chứng minh được cội nguồn bản địa của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng. Đặc biệt, công cuộc này do chính các nhà khảo cổ học Việt Nam thực hiện, chứ không phải nhờ từ người Pháp, những người đặt nền móng cho việc nghiên cứu khảo cổ học hiện đại Việt Nam.

Đồ gốm cổ Việt Nam ra đời khoảng 10.000 năm trước, trong văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn (1) và đến giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, kỹ thuật chế tác đồ gốm đã đạt đến đỉnh cao cả về kỹ thuật và nghệ thuật. Phùng Nguyên là tên một nền văn hóa tiền Đông Sơn nổi tiếng, phân bố trên một vùng khá rộng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Tên gọi của nền văn hóa này được lấy từ tên của một di chỉ khảo cổ học: di chỉ Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ, Lâm Thao, Phú Thọ) được phát hiện từ năm 1959 (2).

Các loại hình trong gốm Phùng Nguyên:

Về loại hình, gốm Phùng Nguyên thường có các loại đồ đựng như bình, vò, bát tròn, bát mâm bồng… được tạo bằng bàn xoay nên có độ dày đều cân đối; một số loại hình nặn bằng tay như tượng động vật, chạc gốm, dọi xe chỉ, bi gốm… Hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên đa dạng và phong phú về kiểu loại và các họa tiết trang trí.

Nồi gốm đen Phùng Nguyên

Gốm trong văn hóa Phùng Nguyên, mà không đồ gốm nào có thể sánh được, không chỉ nổi bật ở sự phổ biến rộng rãi, tính thống nhất cao, kỹ thuật chế tác điêu luyện mà còn ở sự phong phú của hoa văn trang trí, thể hiện trình độ tư duy thẩm mỹ cao.

Hoa văn trong gốm Phùng Nguyên:

Cách thức tạo hình hoa văn trang trí có bước chuyển đổi rõ rệt qua ba giai đoạn: ở giai đoạn sớm, lối in lăn kết hợp khắc vạch được sử dụng rộng rãi; sang giai đoạn điển hình, lối khắc vạch in lăn đã dần được thay thế bằng khắc vạch in chấm; đến giai đoạn muộn, lối trang trí hoa văn khuông nhạc và văn thừng to, thô chiếm vị trí chủ đạo. Trình độ điêu luyện của người thợ gốm Phùng Nguyên thể hiện qua các đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải phức tạp.

Hoa văn gốm Phùng Nguyên với đặc thù là kiểu văn khắc vạch kết hợp chấm mịn theo băng dải tạo thành các họa tiết phức tạp nhưng rất chặt chẽ. Những hoa văn này được trang trí thành băng, tạo những họa tiết uốn lượn lặp đi lặp lại, có các dấu đệm nằm trong khung trống. Các họa tiết khắc vạch hình chữ S cong đều đối xứng, nằm ngang chiếm vị trí chủ đạo, kết hợp các họa tiết hình học đối xứng như hình tam giác, hình thoi. Thêm vào đó, hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên còn đa dạng ở các kiểu khắc vạch trên nền thừng, khắc vạch kết hợp hài hòa chấm que theo băng dải, khắc vạch kết hợp in lăn và miết láng…

Những đồ án hoa văn này đã thể hiện trình độ khéo léo của người thợ gốm, chỉ bằng hai bàn tay và những dụng cụ tạo hoa văn thô sơ, như những chiếc que đầu nhọn, đã tạo vạch nên những đồ án phức tạp nhưng không rườm rà, cân đối mà không cứng nhắc.

Hoa văn trên gốm Phùng Nguyên còn thể hiện trình độ tư duy khoa học của người thời bấy giờ.

Không phải tự nhiên mà người thợ gốm có thể hiểu được sự cân đối, quy luật đối xứng… mà có thể, do họ đã quan sát kỹ những điều có sẵn trong tự nhiên, trong con người, trong cuộc sống hàng ngày mà nảy sinh những ý tưởng về đối xứng để vận dụng vào thao tác tạo hoa văn trên đồ gốm.

Trình độ tư duy của người thợ gốm còn thể hiện trong việc xếp hoa văn thành các băng dải và sự tiếp nối cùng một họa tiết quanh đồ gốm. Sự quay tròn của một họa tiết hoa văn theo vành tròn trên đồ gốm, đặc biệt trên loại bát đĩa mâm bồng, dường là sự phản ánh nhận thức của con người về những chu kỳ mà họ quan sát được trong cuộc sống hàng ngày, như bốn mùa xuân hạ thu đông luân chuyển trong một năm, sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa thời tiết khi nóng khi lạnh, quan sát sự tròn khuyết của tuần trăng, sự gieo trồng thu hoạch của mùa màng theo thời vụ, sự đâm chồi, sinh trưởng, đơm hoa kết quả của cây trái… (3).

Trên hoa văn gốm Phùng Nguyên, các họa tiết khắc vạch hình chữ S cũng chiếm vị trí chủ đạo.

Theo thống kê của GS. Hà Văn Tấn, có trên 30 kiểu môtip hoa văn hình chữ S (4). Chữ S thường được khắc nét đôi thành một hay hai hàng ngang ở giữa những đường chỉ chìm, tạo thành một băng hoa văn. Những băng hoa văn này không đứng đơn độc mà thường có các vành văn chấm dải, vành văn hình giun, vành vòng tròn cuống rạ, vành các đoạn thẳng song song,… tạo thành những đồ án sinh động, lấy chữ S làm trung tâm, làm họa tiết chính.

Chiếm số lượng lớn hơn cả là những hình chữ S đứng riêng lẻ thành hàng đều đặn, lúc một hàng một, lúc hai hàng song song trong các băng và được bao quanh bởi các đường chỉ chìm và các đoạn thẳng đứng. Hoa văn kiểu này trang trí phổ biến trên bát mâm bồng và trên bình dạng thố. Trên loại hình bát mâm bồng thường được trang trí các họa tiết hoa văn đẹp mắt và cầu kỳ, chứng tỏ người thợ gốm đã để nhiều tâm huyết và công sức vào đây.

Những họa tiết chữ S nằm ngang ít hơn và chúng thường được khắc vạch nối liền chữ nọ với chữ kia tạo thành một băng hoa văn hình chữ S tương đối hẹp, chạy dài trang trí vòng quanh phần vai của một loại nồi miệng loe, đáy tròn. Nhìn trực diện, vành hoa văn trang trí này thể hiện như một vòng tròn đồng tâm, nên độ doãng của những chữ S này thường rất lớn, có khi chữ S doãng đến độ gần như chạy thành hàng ngang trên đồ đựng.

Có thể nói, đỉnh cao của hoa văn gốm Phùng Nguyên chính là những đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải phức tạp, đối xứng sinh động.

Số lượng hoa văn trang trí đối xứng trên đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên tương đối lớn. Phổ biến nhất là các họa tiết những hình tam giác ngược chiều nhau trang trí thành băng vòng quanh cổ đồ gốm. Trong các hình tam giác, thường có khắc những đường cong, đoạn thẳng, tạo thành những đồ án đối xứng qua đường cao của hình tam giác, tạo nên những hình tam giác hoặc đóng kín, hoặc để hở. Viền quanh hình tam giác là những hàng chấm dải đều đặn, phần còn lại được miết nhẵn. Phía trên và dưới có những đường chỉ chìm song song, đều đặn nhau làm nền cho đồ án hình tam giác.

Đối xứng gương:

Các họa tiết trang trí bên trong hình tam giác dù đơn giản hay phức tạp cũng đều theo nguyên tắc đối xứng qua đường cao của hình tam giác. Những đối xứng kiểu này được gọi là đối xứng gương: “Đối xứng gương là một kiểu đối xứng khá phổ biến. Các nhà sinh học còn gọi kiểu đối xứng này là đối xứng lưỡng trắc. Ta có thể thấy hình ảnh của đối xứng gương – gọi như vậy vì giống như ta với bóng ta ở trong gương – ở khắp quanh ta và cả ở bản thân ta. Người xưa cũng vậy, họ tìm thấy kiểu đối xứng này ở chiếc lá, ở vết chân thú, ở đôi cánh cò trải rộng trên trời cao…” (5).

Cụ thể hơn, đối xứng gương là “ta có thể dùng một mặt phẳng cắt các hình đối xứng kiểu này thành hai nửa bằng nhau và từng cặp điểm đối xứng đều cách đều mặt phẳng đó. Khi gập lại, hai nửa có thể trùng khít lên nhau” (6). Người thợ gốm Phùng Nguyên, khi tạo hoa văn, cũng tuân thủ một cách chặt chẽ quy tắc đối xứng này; từ những hình đối xứng rất đơn giản như những hoa văn khắc vạch hình chiếc lá đến những hình đối xứng phức tạp như những hình tam giác đối xứng.

Đối xứng trục quay trong gốm Phùng Nguyên:

Nguyên tắc đối xứng tiếp theo là đối xứng trục hay đối xứng quay: “Hình có đối xứng trục có những bộ phận bằng nhau và giống nhau nhưng không thể chồng khít lên nhau bằng cách gập qua một đường thẳng như trong đối xứng gương mà những bộ phận bằng và giống nhau đó chỉ có thể chồng lên nhau khi ta quay một trục thẳng góc với mặt phẳng chứa hình đó” (7).

Hoa văn kiểu chữ S nằm ngang theo hàng là một đồ án tiêu biểu của đối xứng trục. Những đường khắc vạch hình chữ S nối tiếp nhau chạy ngang quanh hiện vật. Kiểu hoa văn này thường trang trí trên cổ bình hoặc nồi đựng có kích thước lớn. Hầu hết các họa tiết hoa văn khắc vạch kiểu chữ S với những biến thể của chúng đều có tính chất đối xứng trục.

Nồi gốm Phùng Nguyên

Bên cạnh đó, người thợ gốm Phùng Nguyên còn tạo nên những đồ án gồm hai họa tiết là hai hình kín, bản thân mỗi hình không có sự đối xứng nhưng lại được đặt ở vị trí có đối xứng trục quay với nhau. Đó là đồ án hoa văn khắc vạch mà hình “bào thai” là một dẫn chứng (8). Đồ án hoa văn này gồm hai hình khắc vạch phần lưng cong, phần bụng nhìn trông giống như một em bé đang nằm trong bụng mẹ. Nếu nhìn hình đơn thì không có nét đối xứng nhưng đặt hai hình ngược chiều nhau thì đồ án này gồm hai hình đóng kín đồng dạng và được đặt theo nguyên tắc đối xứng trục.

Đối xứng tịnh tiến trong gốm Phùng Nguyên:

Nguyên tắc đối xứng cuối cùng là đối xứng tịnh tiến. “Đối xứng tịnh tiến là các dải hoa văn gồm các họa tiết không có đối xứng gương mà cũng không có đối xứng trục. Lấy riêng ra từng họa tiết, người ta có thể coi đó là những hình không đối xứng. Nhưng chúng được lặp lại trên một dải và chúng có thể chồng lên nhau bằng cách trượt theo một hướng” (9).

Thố gốm Phùng Nguyên

Những họa tiết hoa văn khắc vạch hình chữ S trong có chấm dải được liên kết thành một kiểu trang trí liên hoàn trên đồ đựng. Người thợ gốm đã khắc vạch một loạt chữ S móc nối liền nhau chạy vòng quanh đồ đựng. Những hoa văn này đã được người thợ gốm tạo nên những hình đóng kín không có đối xứng trục hay đối xứng gương và cho chúng lặp lại, tạo thành nhịp điệu của dải hoa văn. Các dải hoa văn này được liên kết với nhau theo nguyên tắc tịnh tiến.

Trên các môtip hoa văn chính, để lấp kín những khoảng trống, người thợ gốm đã tạo nên các họa tiết đệm, đó là những hình tam giác, hình thoi, hình bán nguyệt, đôi cánh chim đang sải bay… làm cho các môtip chính không bị rỗng mà cũng không rườm rà, rối mắt.

Bột màu trong gốm Phùng Nguyên:

Nét đặc biệt nữa là người thợ gốm Phùng Nguyên còn dùng một chất bột trắng để khảm vào các rãnh hoa văn khắc vạch của một số loại gốm mịn và rất mịn, được tìm thấy ở các di chỉ Gò Bông, Xóm Rền… (Phú Thọ). Cư dân Phùng Nguyên là những người đầu tiên thử nghiệm dùng chất bột trắng để trang trí hoa văn và làm áo gốm ở Việt Nam. Kết quả phân tích mới đây do các nhà khoa học Nhật Bản tiến hành đã cho thấy, chất bột trắng này là một hợp chất nhân tạo. Đây thực sự là một tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và vẻ đẹp của gốm văn hóa Phùng Nguyên (9).

Trên đây là những nét đặc trưng cơ bản của đồ gốm trong giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên. Hoa văn trên gốm Phùng Nguyên, được tạo ra bởi bàn tay khéo léo cùng tư duy logic của người thợ gốm, đã có những nét độc đáo, riêng biệt mà những người thợ gốm ở các giai đoạn văn hóa sau đó hầu như không thể vượt qua.

Bên cạnh số lượng đồ sộ của hiện vật, sự phong phú và đa dạng về loại hình và hoa văn trang trí trên đồ gốm đã chứng minh được sự phát triển cao của trình độ kỹ thuật và đặc biệt là tư duy thẩm mỹ của người thợ gốm giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Phùng Nguyên mãi mãi là đỉnh cao trong kỹ thuật và thủ pháp trang trí hoa văn trên đồ gốm thời tiền – sơ sử Việt Nam.

_______________

  1. Nguyễn Kim Dung, Hai hệ thống gốm sớm trong thời đại đá ở Việt Nam, tạp chí Khảo cổ học số 1 – 1983, tr.22-35.
  2. Hán Văn Khẩn, Văn hóa Phùng Nguyên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
  3. Bùi Thị Thu Phương, Hoa văn và kỹ thuật tạo hoa văn đồ gốm di chỉ Xóm Rền (Phú Thọ), Luận văn Thạc sĩ Khảo cổ học, Tư liệu Viện Khảo cổ học, 2005.

4, 5, 6, 7, 9. Hà Văn Tấn, Người Phùng Nguyên và đối xứng, tạp chí Khảo cổ học, số 3, 4 – 1969, tr.16-27.

8. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Ngọc Bích, Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 325, tháng 7-2011

Tác giả : Bùi Thị Thu Phương
http://vhnt.org.vn/tin-tuc/my-thuat-kien-truc/28307/hoa-van-trang-tri-tren-do-gom-phung-nguyen

 

Những loại cổ vật Việt Nam là duy nhất trên thế giới

Jean Francois Hubert, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, cổ vật Việt Nam, mỹ thuật Việt Nam, văn hóa Chămpa… đã dành cho TTCT một cuộc trao đổi về cổ vật Việt Nam.

Mở đầu cuộc phỏng vấn về Việt Nam, ông Hubert cho biết: “Tôi vô cùng ấn tượng về đồ gốm Việt Nam. Những chiếc ấm, thạp thời Lý – Trần hay bình vôi, chum, hũ thời Lê… cả hình dạng, phong cách, họa tiết trang trí thì không lẫn vào đâu được. Tôi thường nói đùa những đồ vật này là 300%, thậm chí 500% là cổ vật Việt Nam, với nhiều đặc trưng mà đồ gốm các nước khác, kể cả Trung Quốc không hề có. Những dấu hiệu trên những cổ vật ấy mang dấu ấn của hội họa trừu tượng. Cách đây 10 thế kỷ mà người Việt đã nghĩ ra những họa tiết như vậy thì rất ngạc nhiên. Đối với tôi, những đồ gốm thời Lý – Trần là tuyệt tác. Văn hóa Đông Sơn độc đáo và duy nhất trên thế giới, xứng đáng để chúng ta tiếp tục đào sâu nghiên cứu nhiều hơn nữa. Trong khi đó, người Trung Quốc khi viết về văn hóa Đông Sơn thì thường xem nền văn hóa này như một bộ phận của văn hóa Quảng Tây. Phía Trung Quốc, vẫn có những cuộc triển lãm về đồ Đông Sơn của Việt Nam và ghi chú giải thích bên dưới đó là thuộc văn hóa Trung Quốc. Theo tôi, nền văn hóa này là của Việt Nam 100%”…

* Thưa ông, cổ vật ở Việt Nam hiện đang thật giả lẫn lộn, không chỉ đồ giả mà còn làm giả trên chính đồ thật. Là một chuyên gia, ông làm thế nào để phát hiện sự thật – giả này? Có cách nào để phòng tránh?

Ở Việt Nam, một số thợ gốm ở Bát Tràng, thợ điêu khắc đá ở Đà Nẵng hay thợ đúc đồng ở Thanh Hóa… làm đồ giả cổ rất giỏi. Họ phỏng theo đồ thật và làm đồ giả giống như thật. Có trường hợp ở Thanh Hóa, người ta làm đồ giả cổ, phết thêm một lớp “ten” đồng của đồ thật ở bên ngoài rồi hô hoán đào được trong lòng đất, rồi có người đứng ra làm chứng hẳn hoi… Thật ra ở Quảng Tây (Trung Quốc) cũng có chuyện làm giả như vậy chứ không riêng gì ở Việt Nam.

Muốn phân biệt thật – giả trước tiên phải xem xét dấu vết thời gian đọng lại trên hiện vật. Công việc này chúng tôi làm hằng ngày và trong nhiều năm nên đã đúc rút thành kinh nghiệm để nhận diện. Muốn giám định đúng hiện vật phải thường xuyên tiếp cận, cọ xát từ ngày này sang ngày nọ, rất cần mẫn, công phu và mất nhiều thời gian. Với nghề này, càng tiếp cận nhiều với hiện vật càng dễ đi đúng hướng.

Thật ra trên thế giới chỉ có khoảng năm hay sáu người thật chuyên, thật giỏi, có thể hiểu được tường tận một số đồ vật. Nhưng trên thế giới cũng có những kẻ lừa đảo rất giỏi, có thể tồn tại trong nghề giả cổ này đến 20 năm.

Tôi học được rất nhiều từ những nhà sưu tập Việt Nam. Họ khá lạ, có người trong 20 năm ròng chỉ mân mê đồ vật mà tích lũy kinh nghiệm chứ không học từ sách vở hay trường lớp nào như các nhà giám định ở phương Tây. Lâu ngày tự nhiên có kiến thức, phân biệt rất già dặn. Họ kinh nghiệm đồ đồng Đông Sơn thật sẽ rất nhẹ. Còn tượng Chămpa thật nếu búng vào thì có tiếng “lanh canh, long cong”. Chỉ cần nhấc một tượng Phật gỗ Phù Nam lên, người giỏi biết ngay thật – giả.

Đừng nghĩ rằng chỉ ở Việt Nam mới có nhiều đồ giả mà ngược lại phương Tây còn nhiều hơn. Thực trạng cổ vật ở Việt Nam cho thấy đó là một gia tài đồ sộ, và nghiên cứu của chúng ta về gia tài này thì chưa tới đâu.

* Ông có lời khuyên nào đối với người chơi cổ vật Việt Nam?

Nếu lao vào cuộc chơi này trước tiên nên tin tưởng ở mình và tự học, nên trực tiếp, thường xuyên tiếp xúc với hiện vật. Nên đến các phòng triển lãm hoặc viện bảo tàng để xem và sau đó là tìm sách để đọc. Ở Việt Nam có nhiều cuốn sách viết về cổ vật rất tốt, nhiều công trình biên khảo về đồ gốm rất có giá trị.

Người chơi cũng nên chọn thái độ lương thiện, liêm sỉ trong cuộc chơi, vừa nhũn nhặn để học tập, nuôi cho mình sự đam mê mới đi được xa. Theo tôi, phải mất ít nhất 15 năm mới biết mình có trụ vững trong nghề hay không. Tất nhiên, khi đạt đến trình độ bình phẩm về cổ vật mới được coi là người có nghề. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu sâu trong một thời gian dài.

Ngày xưa Henri Parmentier khởi đầu bằng việc khai quật ở Mỹ Sơn. Xem lại những cuộc khai quật tương tự, so với thế giới thì đúng là nước Pháp đi trước các nước khác cả 30 năm nhưng sau đó thì chững lại. Những viện bảo tàng Pháp sau những bước đi đầu rất đẹp, chỉ ôm khư khư những hiện vật cổ, cho đến nay chậm hơn không dưới 30 năm so với nhiều bảo tàng trên thế giới.

Từng có những sự kiện chấn động ở Pháp khi một chuyên gia về Chămpa công bố những khám phá mới và được giới nghiên cứu lắng nghe. Nhưng sau đó mới lòi ra đó là những món đồ sao chép khiến người ta rất hoang mang. Vì thế, nếu chỉ nghiên cứu lý thuyết trong một thời gian dài mà không sờ đến hiện vật sẽ không phân biệt được thật – giả và sẽ có nhiều lỗ hổng trong giám định…

* Người Việt Nam đang có xu hướng giảm chơi đồ gốm Trung Quốc mà chuyển sang chơi đồ gốm Việt Nam. Ông đánh giá điều này như thế nào?

Trước tiên phải thừa nhận đồ gốm Trung Quốc số lượng rất lớn và có lẽ mang một “thiên chức vương giả”. Đồ càng đẹp, càng uy nghi thì người Trung Quốc càng trọng. Trong khi đó người Việt Nam và Nhật Bản khi xem xét hiện vật thường có khuynh hướng nhân văn hơn, thường đặt trong một bối cảnh có nhiều mối tương quan với đất đai. Gặp những món đồ có vết rạn, người Trung Quốc thường vứt bỏ.

Người Việt Nam và Nhật Bản thì giữ lại. Họ thấy trong đó có hình ảnh, tiếng nói của đất. Tôi cảm thấy người Pháp chúng tôi cũng có tương quan về đất đai như thế nhưng ở tầm mức ít sâu sắc hơn. Điều này không hiểu sao ở người Việt lại mãnh liệt đến mức kỳ lạ. Theo tôi, trong 30 năm tới đây xu hướng này sẽ rõ nét hơn, và giới sưu tầm trên thế giới sẽ nghiêng hẳn về xu hướng này.

* Ở Việt Nam mới chỉ có các cuộc đấu giá cổ vật nghiệp dư và tự phát. Theo ông, vì sao Việt Nam chưa có sàn đấu giá cổ vật? Phải chăng do luật pháp không đầy đủ, do người Việt không có kinh nghiệm hay do sức hút của thị trường kém?

Không riêng gì Việt Nam mà nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Philippines… cũng không có sàn đấu giá. Đấu giá cổ vật là một sự bảo đảm tính thật – giả rất tốt cho hiện vật. Nhưng chính vì tính phức tạp và cơ chế đấu giá cổ vật ở Việt Nam chưa rõ ràng cho nên người ta chưa tổ chức được. Trong cuộc bán đấu giá không thể phỉnh gạt, làm mờ mắt ai được. Đem một cái thố ra bán phải kèm theo bảo hiểm, rồi phê bình, miêu tả rất đầy đủ, từ xuất xứ, niên đại, tính chất, đặc điểm, rồi định giá…

Điều tôi thích ở các cuộc đấu giá là mọi chuyện xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, từ kẻ bán người mua cho đến giá cả, sự thật – giả… Chính vì vậy mà cuộc đấu giá có nhiều thủ tục phức tạp khiến nó chưa thể thực hiện ở Việt Nam. Các hãng đấu giá lớn trên thế giới cũng từng gặp những phiền toái như thế.

Có trường hợp khách hàng đưa 10 hiện vật đến hai hãng Christie’s và Sotheby’s để đấu giá. Qua thẩm tra, khảo cứu, các hãng đấu giá chỉ chọn được hai món để đưa ra đấu giá và cất đi tám món. Sau đó, hãng đấu giá trả lời rất khéo rằng họ chỉ bán được hai món. Vì thế, đôi khi những người có cổ vật bị từ chối thì sinh lòng trách giận hãng đấu giá.

* Dự đoán của ông về thị trường đấu giá cổ vật của Việt Nam?

Tôi chưa nhìn ra được thị trường này, kể cả trong nhiều năm nữa. Hai hãng đấu giá lớn là Christie’s và Sotheby’s đã suy nghĩ về việc này hơn 10 năm nay nhưng chỉ mới khởi đầu trong một vài năm gần đây. Muốn làm được điều này sẽ phải vượt qua nhiều quy định rất phiền phức của chính quyền sở tại. Rồi hiện tượng dối trá, lọc lừa.

Người ta ít khi nghĩ đến những khoản lợi nhuận vô cùng lớn mang lại cho quốc gia nếu làm được điều này mà cứ nghĩ đây là trò tiêu khiển của một nhóm người, do đó chưa đặt sự việc đúng tầm mức.

Việt Nam các bạn tương tự Pháp và Ý, là những xứ sở có nền văn hóa rất cao. Những giá trị của nền văn hóa như thế này là độc nhất vô nhị. Nhiều khi tôi cũng tự hỏi không biết người Việt Nam có nhận ra được điều đó không. Tôi nghĩ người Việt Nam bây giờ phải nghĩ cách tái chinh phục văn hóa của nước mình. Có thể nói văn hóa Việt Nam như khoáng sản, chẳng khác dầu mỏ mà chưa ai biết cách khai thác để làm giàu.

* Theo ông, vị trí và giá trị của cổ vật Việt Nam đang ở đâu trên thế giới?

Trên thị trường thế giới, cổ vật Việt Nam không được quan tâm như hội họa, vốn có vị trí cao và đang tiếp tục vươn lên. Cổ vật Việt Nam, những đồ Đông Sơn có tiếng tăm cũng chưa nhiều, đó là chưa kể những cổ vật đích thị của Việt Nam nhưng lại bị Trung Quốc nhìn nhận của họ. Từ những năm 1995 – 1996 tôi có tổ chức một số triển lãm và đấu giá cổ vật Việt Nam, nhưng giá cả nhìn chung không cao lắm. Trong khi đó, vị trí và giá cả của hội họa Việt Nam đã tăng lên cao trong tổng thể hội họa châu Á.

Nguồn: Cuộc phỏng vấn do THÁI LỘC – TRẦN ÐỨC ANH SƠN thực hiện

Tg: Chắc chắn nội dụng cuộc phỏng vấn sẽ gợi cho các chuyên gia, những người chơi và yêu thích cổ vật Việt Nam nhiều suy ngẫm…