Archive | Tháng năm 2017

Sưu tập trang sức văn hóa Đông Sơn tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Văn hóa Đông Sơn được phát hiện đầu tiên vào năm 1924 bên bờ sông Mã thuộc làng Đông Sơn, huyện Đông Sơn, nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa. Cho đến năm 2014, quá trình phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn đã tròn 90 năm. Trải qua gần một thế kỷ, với những thành tựu của khảo cổ học, chứng cứ về Văn hóa Đông Sơn, một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam được nhiều chuyên gia, cũng như công chúng trong và ngoài nước hoàn toàn thán phục. Đây cũng là thời kỳ tạo tiền đề cơ sở vật chất cho sự ra đời nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, và là nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam.

Văn hóa Đông Sơn được phân bố chủ yếu ở 3 lưu vực sông chính đó là sông Hồng, sông Mã và sông Cả, thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Về niên đại, tồn tại trong khung thời gian từ cuối thiên niên kỷ I trước Công Nguyên đến thế kỷ 2 sau Công Nguyên. Văn hóa Đông Sơn hình thành và phát triển trên nền tảng của những văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun), cách ngày nay 4.000 đến 2.500 năm.

Hiện nay, số lượng di vật đồ sộ thuộc Văn hóa này được lưu giữ ở các bảo tàng trong nước và nước ngoài, các sưu tập tư nhân, nhưng có lẽ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một trong những đơn vị lưu giữ nhiều hiện vật Văn hóa Đông Sơn nhất, gồm các loại hình như: đồ dùng sinh hoạt, công cụ lao động, vũ khí, nhạc khí và đồ trang sức. Mỗi sưu tập đều có những chức năng sử dụng khác nhau, ẩn chứa trong mình những ý nghĩa sâu sắc, từ đó phản ánh nhiều khía cạnh trong đời sống của cư dân xã hội đương thời.

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn giới thiệu đến công chúng một sưu tập hiện vật đặc sắc: “Sưu tập trang sức Đông Sơn” hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Sưu tập không những đa dạng về loại hình, mà còn phong phú về chất liệu như đồng, đá, mã não, thủy tinh,…trong đó trang sức đồng chiếm số lượng nhiều hơn cả.

Văn hóa Đông Sơn là thời kỳ nở rộ của các sản phẩm đồng thau, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật đúc đồng, những sản phẩm đồng đã dần chiếm ưu thế trong đời sống của cư dân Đông Sơn. Trang sức bằng đồng được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ thuộc Văn hóa này, đa dạng về loại hình và kiểu dáng như: vòng (gồm vòng ống chân, vòng ống tay, vòng trổ thủng, vòng hình sống trâu, vòng có mặt cắt ngang hình bầu dục, hình tròn, hình lòng máng,…) trâm cài, khóa thắt lưng,… Một trong những loại hình đồ trang sức đồng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng nhất là vòng ống. Vòng thường có hình nón cụt hay hình trụ rỗng,… trên thân có những đường gờ nổi song song với nhau, các đường chỉ chìm, đường tròn tiếp tuyến có chấm giữa, hoa văn sóng nước, ở một hay hai đầu thường được trang trí hoa văn hình bông lúa, hình chữ S,…Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Nhiều chiếc vòng ống, ở vành miệng và thân được gắn nhạc đồng, chứng tỏ, ngoài chức năng làm đẹp, những chiếc vòng ống này còn là loại nhạc cụ độc đáo, đặc biệt trong những lễ hội. Bởi khi múa, những quả nhạc đồng (lục lạc) có kích thước xấp xỉ bằng nhau, đã rung đập vào nhau hay đập vào thân vòng tạo nên những âm thanh vui nhộn. Những lục lạc đồng không chỉ được gắn trên vòng ống, các nhà nghiên cứu còn bắt gặp chúng được gắn trên một số hiện vật khác của Đông Sơn tìm thấy trong các di chỉ ở Làng Vạc (Nghệ An) như chuông đồng, muôi đồng, xà tích, khuyên tai, nhẫn, khóa thắt lưng. Điều đó càng chứng tỏ đời sống của cư dân dân Đông Sơn gắn liền với âm nhạc và nhảy múa, đặc biệt, trong những dịp hội hè, tế, lễ. Những hình ảnh này đã được khắc họa trên một số trống đồng Đông Sơn như hình người đội mũ lông chim hóa trang nhảy múa, qua những khối tượng như: tượng người cõng nhau thổi khèn (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia – Bảo vật Quốc gia năm 2012), hay qua tượng người thổi khèn trên cán muôi đồng trong mộ thuyền Việt Khê,…. Trong khi múa, có nhiều nhạc khí đệm theo như: trống, chiêng, khèn,…và trong một dàn nhạc có nhiều khạc khí như vậy thì vòng ống gắn nhạc có tác dụng làm cho tiết tấu bản nhạc thêm vui tươi, nhộn nhịp. Vòng ống chân, ống tay còn có chức năng chống đỡ những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân. Đặc biệt, đối với đàn ông, nó như một thứ giáp chắn khi ra trận. Nhiều dân tộc còn đeo nhiều vòng ở cổ tay, cổ chân để tránh vắt cắn khi đi rừng.


Vòng tay hình sống trâu trang trí trổ thủng, đồng

Người Đông Sơn rất thích đeo nhiều trang sức, ngoài trang sức ở tai, cổ, tay, thì họ còn quan tâm đến mái tóc,. Những chiếc trâm cài đầu có chất liệu đồng tìm thấy trong các di chỉ Văn hóa Đông Sơn cũng là loại hình trang sức mang đặc trưng của cư dân thời kỳ này. Ngoài chức năng giữ cho mái tóc gọn gàng, trâm cài còn là vật trang trí, tô điểm cho mái tóc. Những phụ nữ quý tộc thường cài những loại trâm đẹp, có kích thước lớn, điển hình như chiếc trâm hình chữ P (gần giống hình chiếc vợt cán dài), mang ký hiệu LSb 24291, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia nhượng lại của ông Triệu Văn Ánh ở Hà Nội năm 1999.


Trâm cài tóc, đồng

Bên cạnh đó, khóa thắt lưng cũng là loại hình trang sức bằng đồng độc đáo của các thủ lĩnh, quan lại và những người giàu có thời kỳ này. Trên khóa thắt lưng thường trang trí những đường xoắn ốc, trang trí hình chữ S, có khóa thắt lưng gắn thêm lục lạc, và có những khóa thắt lưng trang trí cá sấu, hình rùa. Những con vật thể hiện cho sự dũng mãnh của các thủ lĩnh thời Đông Sơn.

Như vậy, những đồ trang sức này không chỉ có chức năng làm đẹp mà nó còn đóng vai trò quan trọng làm phong phú đời sống nghệ thuật, tinh thần và tâm linh của con người.

Bên cạnh những đồ trang sức bằng đồng, loại hình trang sức đá cũng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng, gồm các loại hình như vòng tay các loại, khuyên tai, hạt chuỗi,…với kỹ thuật khoan tách lõi, mài, giũa, đánh bóng,… Có lẽ khuyên tai đá hình vành khăn là loại hình phổ biến của cư dân Đông Sơn. Loại đá được người Đông Sơn lựa chọn làm đồ trang sức là các loại đá trắng, xanh, có vân, xám, vàng nâu, nổi bật nhất là màu đỏ của mã não, xanh mát của đá ngọc hay trong suốt của thạch anh. Như vậy, để làm đẹp, người Đông Sơn không chỉ chế tạo ra các loại hình trang sức độc đáo, mà còn chú trọng về màu sắc của chúng, bởi chúng góp phần tôn thêm vẻ đẹp cho bản thân họ. Đặc biệt, trong Văn hóa Đông Sơn có những hạt chuỗi đá dài 3 – 4cm, được mài vát 2 đầu, đây là loại hạt chuỗi không phải để đeo ở cổ, mà theo một số tài liệu dân tộc học thì chúng được đeo ở tai, có lỗ ở giữa để cắm giải tua hay lông chim để trang trí.


Khuyên tai hình vành khăn, thạch anh

Ngoài những trang sức bằng đồng, đá, cư dân Đông Sơn còn sử dụng đồ trang sức bằng thủy tinh. “Sản xuất thủy tinh là một nghề hoàn toàn mới, chỉ ra đời vào thời Đông Sơn, có ý kiến nói đến sự ra đời sớm của trung tâm chế tạo thủy tinh Sa Huỳnh và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các vùng xung quanh,… Như vậy nghĩa là nghề làm thủy tinh Đông Sơn có nguồn gốc hay ít nhất thì cũng chịu ảnh hưởng của nghề thủy tinh Sa Huỳnh”. [Hà Văn Tấn (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội]. Trang sức có chất liệu thủy tinh đang trưng bày và giới thiệu tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia gồm: hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai,… trong đó những chiếc vòng tay được xem là một trong những loại hình tiêu biểu.

Tuy kỹ thuật chế tác thủy tinh không phải là thế mạnh của cư dân Đông Sơn, nhưng với sự xuất hiện của đồ trang sức bằng thủy tinh trong văn hóa này cho thấy: cư dân Đông Sơn ngay từ rất sớm đã có sự giao lưu, trao đổi, cả về kỹ thuật và hàng hóa với các vùng trong khu vực.

Vậy những đồ trang sức đa dạng về chất liệu, phong phú về kiểu dáng, tinh xảo về hoa văn này đã được người Đông Sơn sử dụng như thế nào? Điều đó được phản ánh qua những khối tượng tròn trang trí trên thạp đồng, trên cán dao găm,… Những khối tượng người trang trí ở cán kiếm, cán dao găm đồng được mô tả rất chân thực và sống động như hình người đàn ông mặc khố, đứng chống nạnh, tóc búi tròn, đôi vòng tai to chấm xuống vai, tay đeo vòng, cổ đeo vòng dài xuống đến ngực. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trang trí trên cán kiếm được phát hiện ở núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) thể hiện một vẻ đẹp quý phái. Với mái tóc búi cao hình búp sen, cổ đeo hạt chuỗi dài đến bụng, vòng tai to chấm vai, hai tay đeo vòng. Qua đó cho thấy, thời kỳ này đồ trang sức được cư dân Đông Sơn khá ưa chuộng và sử dụng phổ biến cho cả đàn ông và phụ nữ. Tuy nhiên, cách trang sức của đàn ông và phụ nữ có đôi chút khác nhau, phụ nữ thường đeo khuyên tai to, nặng, dài chấm xuống vai, nhiều tượng Đông Sơn còn phát hiện họ đeo nhiều chiếc khuyên tai móc vào nhau, còn đàn ông thì đeo những chiếc khuyên nhỏ hơn, nhìn nghiêng mới thấy. Những tượng Đông Sơn phát hiện được cho đến nay mới chỉ thấy tượng phụ nữ đeo chuỗi hạt, và thường đeo nhiều chuỗi, chuỗi trong cùng sát vào cổ, chuỗi ngoài cùng chấm đến bụng, loại hình trang sức này chưa thấy ở tượng đàn ông.

Qua số lượng di vật trang sức tìm thấy trong Văn hóa Đông Sơn, chúng ta có thể hiểu, đời sống vật chất của cư dân thời kỳ này đã khá cao, từ đó họ mới có thể tập trung, dành nhiều tâm huyết và thời gian để cho ra đời nhiều loại hình trang sức cầu kỳ, tỉ mỷ và đẹp đến như vậy. Cùng với việc phản ánh sự phong phú trong đời sống tinh thần, những đồ trang sức này còn cho thấy một trình độ kỹ thuật, tư duy, thẩm mỹ trong luyện kim đúc đồng, cũng như chế tác đá của cư dân thời kỳ này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Những bằng chứng về nghề luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn

Văn hóa Đông Sơn (khoảng từ thế kỷ thứ 8 – 7 trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ 1 – 2 sau Công Nguyên) là một nền văn hóa khảo cổ học thời đại kim khí ở Việt Nam, được các nhà khảo cổ học đặt tên dựa vào sự phát hiện ngẫu nhiên một nhóm đồ đồng cổ vào năm 1924 tại làng Đông Sơn ở ven Sông Mã, nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, bắc Trung bộ Việt Nam.

So với các nền văn hóa đồng đại khác ở Miền Trung Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Đông Sơn nổi trội hơn cả ở bộ sưu tập hiện vật đồng thau, mặc dù đồ sắt cũng đã xuất hiện trong nền văn hóa này. Qua thống kê, tỷ lệ đồ đồng trong văn hóa Đông Sơn chiếm tới gần 90% trong tổng số hiện vật các chất liệu. Số lượng hiện vật đồng được tìm thấy cũng đã lên tới hàng vạn tiêu bản, thuộc nhiều loại hình khác nhau, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất, đời sống của cư dân Đông Sơn.

Đồ dùng sinh hoạt có thạp, thố, bình, lọ, âu, ấm, muôi, thìa, bát, đĩa, đèn thắp sáng,… Công cụ làm nông nghiệp, trồng lúa nước có các loại rìu để khai hoang và các loại lưỡi cày, cuốc, xẻng, mai, thuổng… để làm đất. Đặc biệt, người Đông Sơn đã biết làm ra những chiếc liềm để gặt hái cho năng suất cao hơn hẳn những chiếc nhíp thời tiền Đông Sơn chỉ ngắt được từng bông lúa một. Đối với nghề mộc thì có các loại đục vũm, đục bẹt với nhiều kiểu dáng dài ngắn, thon bè thích hợp với từng kỹ thuật đục chạm khác nhau,…

Khảo cổ học cũng đã chứng minh nghề dệt vải khá phát triển khi tìm thấy dấu tích vải và công cụ dệt vải. Bên cạnh những chiếc dọi xe chỉ bằng gốm là một số loại công cụ chuyên dụng bằng đồng như các loại dao, bàn chải. Đáng chú ý có những chiếc dao găm chuôi bẹt, trên một mặt chuôi có những gai nổi nhỏ giống như gai trên bàn chải. Có thể nói, đây là loại công cụ chuyên dùng trong nghề dệt kết hợp cả hai chức năng chải, cắt… Bộ sưu tập dụng cụ săn bắn và vũ khí đồng Đông Sơn có đầy đủ các loại vũ khí tấn công, phòng ngự, đánh xa, đánh gần như giáo, dao găm, rìu chiến, lao, mũi tên, lẫy nỏ, tấm che ngực,… Các loại khác như nhạc khí, vật dụng nghi lễ, đồ trang sức, nghệ thuật tượng tròn,… cũng không những nhiều về số lượng mà còn đa dạng về loại hình, kiểu dáng, hình thức thể hiện,…


Lưỡi cày đồng Cổ Loa

Một câu hỏi được đặt ra là, đồ đồng Đông Sơn là sản phẩm chế tác của chính cư dân Đông Sơn hay được du nhập từ bên ngoài? Cho tới nay, nhiều bằng chứng khảo cổ học thuyết phục chứng minh việc đúc đồng tại chỗ của cư dân Đông Sơn đã được tìm thấy. Đó là những chiếc khuôn đúc đồng bằng đá cát, đất nung và nồi nấu đồng bằng đất sét trộn vỏ trấu, bã thực vật phát hiện được ở Làng Cả (Phú Thọ), Làng Vạc (Nghệ An) và nhiều di tích khác,… Khuôn đúc hở (một mang) dùng để đúc hình động vật đã tìm thấy ở Lãng Ngâm (Bắc Ninh). Đồ đồng nhỏ thì được làm từ khuôn 2 mang như khuôn đúc chuông, dao găm, rìu, giáo đồng,…

Trong khu vực Thành Cổ Loa, Hà Nội cũng đã tìm thấy hàng trăm mảnh khuôn đúc mũi tên cùng dấu vết lò đúc. Riêng trống đồng được đúc bằng kỹ thuật khuôn sáp 3 mang, sử dụng một lần, đúc xong phá khuôn để lấy sản phẩm nên dấu tích loại khuôn này rất hiếm gặp. Hiện mới phát hiện một mảnh khuôn đúc trống đồng giai đoạn muộn ở Luy Lâu, Bắc Ninh.


Dấu vết lò đúc đồng ở Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội

Kỹ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt tới trình độ cao đáng kinh ngạc mà những chiếc trống đồng, thạp đồng với kích thước lớn, hình dáng cân đối, hoa văn trang trí hoàn hảo, sắc nét đến từng chi tiết,… là những minh chứng tiêu biểu nhất. Cho tới nay, hàng trăm chiếc trống đồng đã được tìm thấy trong phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn. Đồng thời, một số trống đồng Đông Sơn điển hình cũng được tìm thấy ở nhiều nơi khác thuộc Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Nhưng những chiếc trống đẹp nhất, hoàn hảo nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Cổ Loa chỉ mới phát hiện được ở Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn với những nét đặc sắc nói trên, không chỉ là biểu hiện cao nhất của công nghệ đúc đồng mà còn là sản phẩm lao động, tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Đông Sơn.

Nếu như các văn hóa tiền Đông Sơn như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chủ yếu mới dừng lại ở giai đoạn hợp kim 2 thành phần là đồng, thiếc thì tới Đông Sơn đã có bước chuyển biến mang tính đột phá. Họ đã tạo ra cả chục loại hợp kim nhiều thành phần với 3 kim loại chính là đồng, chì, thiếc. Sự có mặt của chì đã làm cho nước đồng láng đều và điền đầy vào mọi ngóc ngách của khuôn, giúp cho cư dân Đông sơn đúc được nhiều loại sản phẩm ưu việt hơn các giai đoạn trước cả về kích thước, kiểu dáng, hoa văn trang trí… Hơn nữa, người Đông Sơn đã biết gia giảm số lượng, tỷ lệ thành phần kim loại trong hợp kim cho phù hợp với từng loại hình sản phẩm, công năng sử dụng. Chẳng hạn, những vật dụng sắc nhọn như đục, rìu, mũi tên, dao găm thì sử dụng hợp kim đồng thiếc. Những hiện vật lớn, hoa văn mảnh mai, tinh xảo đòi hỏi kỹ thuật cao thì đều được đúc bằng hợp kim có chì.


Bộ dụng cụ đúc đồng tìm thấy tại Làng Cả, Phú Thọ

Với sự phát triển đột biến, mạnh mẽ như vậy, ngành luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn hẳn phải là một ngành kinh tế độc lập, đòi hỏi sự chuyên môn hóa và có sự phân công lao động rõ ràng. Một bộ phận cư dân tách khỏi nông nghiệp để chuyên đi khai mỏ, luyện quặng hoặc đúc đồng. Bằng chứng về sự chuyên môn hóa này là tại khu mộ Làng Cả đã phát hiện ngôi mộ của một thợ đúc đồng, được chôn theo 4 khuôn đúc, gồm 1 khuôn đúc chuông, 1 khuôn đúc rìu gót vuông, 1 khuôn đúc giáo và 1 khuôn đúc chuôi kiếm ngắn. Ngoài ra còn có nồi nấu và rót đồng. Trong lòng chiếc trống đồng Cổ Loa tìm thấy tại cánh đồng Mả Tre, Cổ Loa, Hà Nội năm 1982 được chôn theo rất nhiều lưỡi cày và hàng trăm mảnh đồng vụn cùng nhiều phế phẩm, mảnh vỡ đồ đồng được thu thập lại để tái đúc. Trống Cổ Loa là một trong những chiếc trống đẹp nhất. Từ đó có thể thấy, chủ nhân trống Cổ Loa phải là người có quyền lực, giàu có và có thể là một thủ lĩnh luyện kim đúc đồng.

Khi nghề luyện kim phát triển lại tác động tích cực, thúc đẩy các ngành nghề kinh tế khác phát triển theo khi cung cấp các bộ dụng cụ lao động tiên tiến, có hiệu năng cao. Như vậy, có thể nói nghề luyện kim đúc đồng là ngành kinh tế động lực đã tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế, xã hội làm cho văn hóa Đông Sơn thay đổi hẳn về chất, vượt lên hẳn cái nền của các nền văn hóa tiền Đông Sơn. Sự đột phá này là động lực giúp cho kinh tế phát triển, gia tăng giá trị thặng dư dẫn đến nhiều biến đổi sâu sắc về thượng tầng kiến trúc của xã hội Đông Sơn, làm tiền đề hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vũ khí văn hóa Đông Sơn – nét đặc trưng trong văn hóa người Việt cổ

Sau 90 năm được phát hiện và nghiên cứu, văn hóa Đông Sơn đã được các học giả trong và ngoài nước hết sức quan tâm và nghiên cứu một cách toàn diện. Các di tích, di chỉ, hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn là một khối tư liệu đồ sộ cho nhiều thế hệ nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, văn hóa, mỹ thuật… “gặt hái” được nhiều thành công trong các công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, loại hình hiện vật là vũ khí trong văn hóa Đông Sơn vẫn còn nhiều “ẩn số” để chúng ta khám phá.

Có thể dễ dàng nhận thấy, các loại hình vũ khí là những hiện vật được phát hiện nhiều nhất trong các sưu tập về văn hóa Đông Sơn, vũ khí được phát hiện ở hầu hết các di tích thuộc văn hóa Đông Sơn. Tư liệu từ kết quả khai quật một số di tích văn hóa Đông Sơn tiêu biểu cho thấy số lượng vũ khí đồng thau chiếm trên 50% tổng số hiện vật đồ đồng thu được. Tại một số di tích, vũ khí có số lượng áp đảo so với các loại hình hiện vật khác như di tích Vinh Quang, Làng Cả, Thiệu Dương, Đông Sơn, Làng Vạc,…

Vũ khí ra đời và phát triển trong xã hội loài người vừa mang tính quy luật khách quan chung của xã hội vừa có những đặc điểm riêng. Trong quá trình phát triển chung của mỗi dân tộc hay mỗi một quốc gia, loại hình vũ khí cũng có sự phát triển từ thấp lên cao với những chất liệu khác nhau, vũ khí trong văn hóa Đông Sơn đã được cư dân Việt cổ sản xuất từ hai chất liệu đồng thau và sắt. Trong đó, phần lớn là những vũ khí bằng đồng đã tạo nên những nét đặc trưng văn hóa trên cả ba khu vực phân bố chủ đạo của văn hóa Đông Sơn là trung tâm sông Hồng, trung tâm sông Mã và trung tâm sông Cả.

Vũ khí bằng chất liệu đồng thau trong văn hóa Đông Sơn vừa đa dạng về loại hình, vừa độc đáo vể kiểu dáng và tính năng sử dụng. Có thể khắng định, vũ khí giai đoạn này đã phát triển đồng bộ cả về tính năng và kỹ thuật trong quân sự như: vũ khí đánh gần – vũ khí đánh xa, vũ khí tấn công – vũ khí phòng hộ, vừa có vũ khí thực dụng vừa có vũ khí mang tính chất tâm linh, có tính biểu trưng.

Các loại hình chính gồm: Giáo là loại vũ khí đánh gần bằng động tác đâm, gồm hai bộ phận chủ yếu là bộ phận tra cán và lưỡi sắc nhọn để đâm; Lao là loại vũ khí đánh xa bằng phương pháp phóng, phần lớn có họng tra cán dài hơn mũi lao, mặt cắt ngang họng chủ yếu gần hình bầu dục, cũng có họng hình tròn hoặc bán nguyệt. Lưỡi thường giữa dày, mỏng dần về hai bên; Dao găm là loại vũ khí đánh gần, là một trong các di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn; Đinh Ba là loại vũ khí đánh gần, thường có chuôi tra cán, song cũng có một vài chiếc là họng tra cán. Chuôi tra cán thường có mặt cắt ngang hình vuông, cũng có đôi chiếc hình tròn, một số chiếc trên chuôi có mấu. Mũi đinh ba có 3 nhánh trên một khung hình chữ U, đầu nhọn, ngạnh; Kiếm là loại vũ khí đánh gần bằng động tác chém, đâm; Qua là vũ khí đánh gần bằng phương pháp bổ, vốn là một đặc hữu của vũ khí Trung Quốc, nhưng những qua phát hiện trong các di tích văn hóa Đông Sơn có phần lưỡi khác biệt trong chi tiết về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí. Qua Có 3 bộ phận chính là lưỡi, chuôi và hồ. Trên hồ thường có 3 hoặc 4 lỗ thủng hình chữ nhật dẹt thẳng hàng là lỗ để xâu dây buộc vào cán. Rìu chiến được xem là di vật quý hiếm của nền văn hóa này, còn có tên gọi khác là dao phạng vì kiểu dáng nó không giống các loại dao bình thường, mà gần giống với loại dao thái phở ngày nay.

Đặc điểm chung của loại dao phạng là kích thước khá lớn, có bản lưỡi rộng, họng tra cán nhô ra ngoài sống lưỡi, họng và lưỡi không nằm trtên cùng một trục dọc; Hàng vạn mũi tên đồng đã được phát hiện tập trung trong một hố nhỏ ở Cầu Vực Cổ Loa. Phổ biến hơn cả là loại mũi tên 3 cánh nhỏ trụ tròn chuôi dài. Ngoài ra còn có loại mũi tên cánh én dẹt và loại mũi tên giống hình giáo lao nhưng kích thước chỉ dài khoảng 6cm, một số loại hình khác chỉ phát hiện được lẻ tẻ; Lẫy nỏ có cấu tạo gồm các bộ phận hộp lẫy nỏ, lẫy nỏ, cò,… được liên kết với nhau bằng các chốt hình trụ; Tấm che ngực là loại hình vũ khí phòng hộ cho các chiến binh giống như áo giáp, chúng là những tấm đồng mỏng, một mặt có 4 quai nhỏ hoặc 4 lỗ nhỏ ở 4 góc để buộc dây, trên một mặt trang trí các hoa văn tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn như văn vạch ngắn song song, văn vòng tròn có tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn chữ X và văn người hóa trang bơi thuyền, văn cá sấu,… Cá biệt có chiếc còn đeo thêm một vài lục lạc, thường phát hiện được trong các ngôi mộ cùng với các loại vũ khí nên các nhà khảo học thống nhất gọi chúng là tấm che ngực; Bao đeo vũ khí có cấu tạo chung gồm có 3 ống đồng gần tròn, ống giữa to và dài hơn 2 ống 2 bên, các ống một đầu to một đầu nhỏ, được gắn trên một tấm đồng phẳng. Trên các ống tròn trang trí hoa văn kỷ hà rất đẹp và khắc thủng các hình tam giác, chữ nhật, dùng để đeo các loại vũ khí nhỏ nhẹ,…


Hộ tâm phiến, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay


Kiếm ngắn, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

Vũ khí đồng thau trong văn hóa Đông Sơn không những nhiều về số lượng, mà còn phong phú đa dạng về loại hình và độc đáo về phong cách. Phần lớn vũ khí không được trang trí hoa văn, song cũng không ít dao găm, dao chiến, qua, giáo, kiếm được trang trí hoa văn đẹp mắt, không chỉ trang trí ở phần cán, mà ngay phần lưỡi cũng được trang trí hoa văn mang đậm sắc thái dân tộc. Trong mỗi loại kể trên lại có nhiều hình dáng khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú.

Ví dụ như:

* Giáo tuy chỉ có hai bộ phận chính, xong những mỗi bộ phận lại được phân loại thành nhiều kiểu dáng: Bộ phận tra cán hầu hết là họng, chỉ một số ít là chuôi tra cán. Họng tra cán có các loại là họng tròn, họng gần hình bầu dục, họng gần vuông. Về kích thước bộ phận họng đa phần trung bình có độ dài bằng khoảng 1/3 chiều dài lưỡi, nhưng bên cạnh đo lại có loại họng dài tương đương lưỡi, có loại họng ngắn. Về kiểu dáng có loại họng xẻ hình đuôi cá, có loại trên họng gắn một quai tròn nhỏ, có loại họng thông sâu đến nửa chiều dài lưỡi, có loại nông hơn. Giáo chuôi tra cán thì có loại chuôi thẳng, có loại chuôi hơi cong; Lưỡi giáo cũng rất đa dạng như lưỡi hình búp đa, hình lá liễu, hình tam giác rìa lưỡi hai bên thẳng, có loại rìa lưỡi uốn lượn; Trên cánh lưỡi chỗ gần họng xòe rộng, có các lỗ thủng hình chữ nhật dẹt nhưng có loại 2 lỗ có loại 4 lỗ, có loại không có lỗ. Loại giáo có lỗ phần lớn phân bố ở lưu vực sông Mã và các khu vực phụ cận. Có chiếc cánh lưỡi phình rộng 2 chỗ trước lúc thon dần đến mũi nhọn. Phần lớn lưỡi có sống nổi cao chạy dọc lưỡi, nên mặt cắt ngang thường có hình thoi dẹt. Giáo có đủ loại kích cỡ khác nhau, có chiếc dài tới trên 50cm, chiều dài trung bình vào khoảng 20 – 25cm.


Giáo, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

* Lao có hình dạng phổ biến nhất là loại lao lưỡi dẹt có họng tra cán giống như lưỡi giáo, nhưng kích thước nhỏ hơn. Có loại mặt cắt ngang lưỡi gần hình bầu dục, có loại lại có sống nổi cao chạy dọc giữa lưỡi, nên mặt cắt ngang lưỡi có hình thoi dẹt. Đặc biệt hơn có loại lao lưỡi tạo thành hình cánh én gần giống như mũi tên cánh én, nhưng có họng tra cán và kích cỡ to hơn. Bên cạnh đó còn có loại lao ngạnh, có loại 1 ngạnh, có loại 2 ngạnh. Lao ngạnh thường có họng rất dài, trên họng có mấu hoặc một quai tròn nhỏ. Phần lớn họng tròn, song cũng có họng bầu dục dẹt. Có loại họng thon dần về mũi, song cũng có loại phần đầu phình to hơn hẳn thân lao.

* Dao găm có số lượng thì không nhiều lắm nhưng về kiểu dáng thì cực kỳ phong phú và độc đáo. Có nhiều loại dao găm ở đây không giống bất kỳ một loại vũ khí nào của các nền văn hóa khác. Nét độc đáo của dao găm Đông Sơn được thể hiện ở tất cả các bộ phận, từ đốc, cán, chắn tay đến lưỡi, nhưng độc đáo nhất là phần cán. Đốc có loại là đốc hình củ hành thường, hình củ hành có các hàng lỗ thủng hình chữ nhật dẹt. Chắn tay có loại là chắn tay ngang, có loại là chắn tay quặp kiểu sừng trâu. Lưỡi có loại gần hình tam giác, hai cạnh bên thẳng mũi nhọn, có loại hai cạnh bên cong vồng mũi tù, có loại hai cạnh bên uốn lượn mũi nhọn. Cán đơn giản hơn cả là cán hình chữ T. Đẹp và độc đáo hơn cả là cán tượng người và tượng động vật. Dao găm cán tượng người và động vật phát hiện ở nhiều nơi nhưng phong phú và đẹp nhất là bộ sưu tập dao găm ở khu mộ táng Làng Vạc (Nghệ An). Một số dao găm trên cán cũng như hai mặt lưỡi được trang trí hoa văn các vòng tròn có tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn các vạch ngắn song song và văn động vật như cá sấu, hươu nai,…


Dao găm, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

* Qua tuy phát hiện được không nhiều, nhưng về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí khá phong phú đa dạng. Chẳng hạn như chuôi, có chiếc thẳng hàng song song với lưỡi, có chiếc chuôi vểnh lên, có chiếc chuôi lại cụp xuống. Chuôi thường có dáng gần hình thang trên mặt có một số lỗ thủng hình chữ nhật và hình tròn. Lưỡi có chiếc thon nhỏ vuốt nhọn, có chiếc lưỡi cùng với hồ làm thành một hình tam giác. Phần lớn ở chỗ lưỡi nối với chuôi có tấm mang nổi ở cả hai mặt để kẹp cán khi buộc dây, và gần đấy thường có một lỗ thủng tròn. Một số qua trên lưỡi, chuôi và hồ được trang trí hoa văn kỷ hà và hình động vật như hươu nai và cá sấu khá đẹp.

Với sự ra đời và phát triển của nghề luyện đúc đồng, trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn việc sản xuất vũ khí đồng thau có điều kiện phát triển nhanh, mạnh. Vũ khí được sản xuất bằng phương pháp đúc bằng khuôn đá hoặc khuôn đất nung, nên sản xuất được hàng loạt, số lượng tăng nhanh. Bằng phương pháp đúc, vũ khí đồng thau được tăng cường độ sắc, nhọn so với các loại vũ khí khác trước đó, nâng cao độ sát thương đồng thời có điều kiện sản xuất ra nhiều chủng loại vũ khí chỉ trong một thời gian ngắn.

Bên cạnh chất liệu đồng, vũ khí Đông Sơn giai đoạn muộn còn xuất hiện những hiện vật chất liệu sắt và một số hiện vật được chế tác kết hợp từ hai chất liệu, thường là lưỡi được làm bằng sắt, chuôi hoặc tay cầm được làm bằng đồng. Tuy số lượng và loại hình những hiện vật vũ khí được làm từ chất liệu sắt hoặc kết hợp đồng và sắt không nhiều, chỉ gồm một số loại giáo, lao, kiếm… song các hiện vật này lại có những giá trị về văn hóa và sử dụng nhất định. Về mặt sử dụng, rõ ràng chất liệu sắt sẽ tạo ra độ cứng và sắc hơn hẳn chất liệu đồng, vì vậy vũ khí có lưỡi bằng sắt là một cải tiến hết sức quan trọng về mặt kỹ thuật chế tác và khả năng chiến đấu của người Đông Sơn. Về văn hóa, các hiện vật đều mang những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa Đông Sơn cả về hình dáng cũng như hoa văn trang trí, bộ phận làm bằng đồng của nhiều hiện vật được trang trí hoa văn rất đẹp, đặc biệt là loại kiếm dài có hoa văn “hình thuyền” (có lẽ tên gọi và ý nghĩa của loại hoa văn này còn cần được nghiên cứu thêm nữa) trên đốc kiếm đã thực sự trở thành một loại vũ khí đặc trưng của văn hóa Đông Sơn.

Đặc biệt, vũ khí văn hóa Đông Sơn, bên cạnh những loại vũ khí có tính kế thừa truyền thống từ giai đoạn trước như giáo, lao, qua, mũi tên, rìu chiến, đã có thêm loại vũ khí tiến bộ nhất lúc bấy giờ là nỏ và mũi tên ba cánh – một loại vũ khí vừa để phòng thủ vừa tấn công tầm xa. Những hình ảnh cỗ máy bắn nỏ được đặt trên các lâu thuyền được khắc họa trên hoa văn trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ,… cùng với việc phát hiện được hàng vạn mũi tên đồng ở Cổ Loa và lẫy nỏ trong một số di tích văn hóa Đông Sơn đã phản ảnh lõi lịch sử trong các truyền thuyết về An Dương Vương xây thành Cổ Loa và là minh chứng rất rõ nét về tài bắn nỏ của cư dân Đông Sơn. Nỏ và cách sử dụng nỏ, cách phối hợp, tác chiến của loại vũ khí này trên chiến trường cũng khẳng định rõ nét thêm bản sắc “phương Nam”, trí tuệ và sức mạnh nội lực trong sự phát triển của cộng đồng cư dân khối Bách Việt nói chung, cư dân Âu Lạc – chủ nhân của văn hóa Đông Sơn nói riêng.


Mũi tên, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

Từ những nét đặc trưng về loại hình, kiểu dáng, số lượng, hoa văn trang trí của vũ khí trong văn hóa Đông Sơn, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng thể về sự phát triển trong chính trị – xã hội, trình độ kỹ thuật, văn hóa của cư dân giai đoạn này. Sự xuất hiện với số lượng áp đảo, phong phú về loại hình và chất lượng của sản phẩm đã khẳng định cư dân văn hóa Đông Sơn đã đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật cao, nhất là trong kỹ thuật luyện kim và làm chủ kỹ thuật chế tác sản phẩm từ các vật liệu kim loại. Và theo quy luật phát triển chung, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đương nhiên sẽ là sự phát triển về kinh tế, xã hội và nền tảng chính trị,…

Hiện tượng này được phản ảnh khá rõ trong các khu mộ táng. Phần nhiều mộ táng không có đồ tùy táng hoặc chỉ có một hai đồ gốm, thì một số mộ có kích thước tương đối lớn chôn nhiều đồ tùy táng, trong đó có một số đồ đồng quý hiếm như đồ dùng để tế lễ và đồ trang sức đẹp, đặc biệt có mộ chôn theo một số lượng vũ khí rất lớn. Điều này phản ảnh xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và trong xã hội đã xuất hiện các giai cấp có địa vị khác nhau, đồng thời dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng trong cộng đồng, quyền lực thống trị trên một vùng lãnh thổ nhất định,… Đây cũng là nguyên nhân cơ bản để cho các loại vũ khí có điều kiện phát triển về mọi mặt và ngày một trở thành nhu cầu thiết yếu của con người trong giai đoạn này. Cũng theo quy luật phát triển, trên địa bàn phân bố của cư dân văn hóa Đông Sơn, dần dần hình thành những liên minh bộ lạc và hình thức Nhà nước sơ khai mà đỉnh cao là Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng đã ra đời. Và ngay từ buổi bình minh của dân tộc Việt, ông cha chúng ta đã phải liên tục chống lại cũng như đánh thắng nhiều kẻ thù nhăm nhe xâm lược và thôn tính. Như vậy, sự phong phú, đa dạng của vũ khí văn hóa Đông Sơn đã trở thành minh chứng chủ đạo cho một giai đoạn lịch sử hết sức quan trọng – giai đoạn dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Viện Khảo cổ học – Khảo cổ học Việt Nam, Tập II/Thời đại kim khí Việt Nam. NXB KHXH., Hà Nội, 1999.

2. Hà Văn Tấn – Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. NXB KHXH./ 1994

3. Phạm Minh Huyền – Văn hóa Đông Sơn tính thống nhất và đa dạng. NXB KHXH, 1996.

Thạp đồng – loại hình bản sắc của văn hóa Đông Sơn

Văn hóa Đông Sơn, được các nhà Tiền sử học đặt trong thời đại đồng và sắt sớm, có niên đại cách ngày nay khoảng 2500 – 2000 năm. Đây là nhân lõi vật chất của Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, của nền văn minh sông Hồng, sông Mã, sông Cả, của những bộ sưu tập hiện vật ấn tượng và vô cùng phong phú, phản ánh muôn mặt đời sống cộng đồng cư dân Việt cổ.

Có thể khẳng định rằng, Đông Sơn là đỉnh cao chói sáng nhất của khu vực Đông Nam Á thời sơ sử, với những tần số phát sóng cực mạnh, đã tạo nên một sự ảnh hưởng văn hóa vô cùng rộng lớn, khiến nảy sinh ra một khái niệm “Đông Sơn ngoài Đông Sơn” của cố Giáo sư, Viện trưởng Viện Khảo cổ học Phạm Huy Thông trước đây, hay “Đông Sơn ngoại biên” của một số nhà nghiên cứu hiện nay. Nói như thế để nhấn mạnh tính đặc thù của bộ sưu tập hiện vật đồng Đông Sơn vùng tam giác châu Bắc Bộ, mở rộng thêm tới xứ Thanh – Nghệ – Tĩnh hiện nay, khiến khó có thể trộn lẫn với Đông Sơn vùng Nam Trung Quốc, Đông Sơn Đông Nam Á lục địa và ngoài hải đảo. Một trong những hiện vật đặc thù ấy là những chiếc thạp đồng lớn nhỏ, được phát hiện trong gần một thế kỷ qua ở Việt Nam, suốt từ miền núi Lào Cai – Yên Bái đến Thanh Hóa – Nghệ An, bao gồm 16 địa phương, với mức độ mật tập khác nhau, qua một phép cộng khiêm nhường là 280 chiếc. Đây là con số chưa nói được hết, khi chúng còn nằm trong các nhà sưu tập tư nhân, dưới lòng đất và những thạp nhỏ “minh khí” chôn theo người chết chưa nằm trong con số thống kê này.

Khác trống đồng, cũng là loại di vật đặc trưng của văn hóa Đông Sơn, có nhiều kiểu dáng khác nhau, mà giới nghiên cứu giờ đây đồng thuận với khái niệm loại I Heger là trống Đông Sơn, thì thạp đồng có kiểu dáng đơn giản hơn nhiều, với hai loại hình cơ bản sau đây:

Thạp có dáng hình quả nhót, thường có nắp đậy. Thân thạp hình trụ, miệng hơi khum, nửa trên hơi bóp, giữa phình và nửa dưới, sát chân thót lại. Tiêu biểu cho loại hình này là thạp Đào Thịnh I và Hợp Minh, cả hai đều phát hiện ở Yên Bái và đều đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Bảo vật quốc gia thạp đồng Đào Thịnh được phát hiện ở Yên Bái. Ảnh: internet

Hoa văn và đề tài trang trí trên hai chiếc thạp này đã có nhiều văn liệu khảo cổ học nhắc đến, nhưng hình ảnh cặp đôi giao hợp trên nắp thạp Đào Thịnh dường như là một hiện tượng duy nhất, được biết cho đến nay, nhưng tinh thần và bản chất quen thuộc của văn hóa Đông Sơn vẫn toát lên, đó là ý nghĩa phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước Việt cổ. Bốn tượng chim bồ nông trên nắp thạp Hợp Minh, dẫu cũng là phiên bản thứ hai về tính độc bản, nhưng lại cho một hình ảnh thân quen hơn với văn hóa Đông Sơn, qua trực quan từ các loại thủy cầm trên trống đồng Ngọc Lũ (Hà Nam), Cẩm Giang (Thanh Hóa)… Những hoa văn hình học, thuyền người trên thạp Đào Thịnh I và Hợp Minh thì quá quen thuộc trên những đồ đồng Đông Sơn, đặc biệt là trên trống đồng, khiến cho bất cứ ai cũng phải thừa nhận, loại thạp quả nhót có nắp là sản phẩm của văn hóa Đông Sơn. Tôi thì cho rằng, chúng là loại hình đặc trưng của bộ Tân Hưng thuở Vua Hùng, Vua Thục, là cốt cách riêng biệt của vùng thượng lưu sông Thao mà địa phận tập trung là tỉnh Yên Bái ngày nay.

Thạp đồng Hợp Minh. Ảnh: internet

Thạp có dáng như một chiếc xô đựng nước hiện đại mà giới yêu thích đồ đồng cổ gọi bằng cái tên dân dã “xô đồng”. Đây là loại thạp không có nắp, có dáng hình trụ, miệng thẳng, phía trên nở và thót dần xuống đáy. Loại thạp này có số lượng nhiều, tập trung ở đồng bằng và thung lũng các dòng sông lớn, như sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Hoa văn trang trí trên thạp chủ yếu là văn hình học: vạch thẳng song song, đường tròn có chấm giữa, ô trám lồng… mang đặc trưng của văn hóa Đông Sơn đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Dẫu hoa văn hình học được coi là nổi trội trên loại hình thạp này nhưng không phải là tất cả. Thạp Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa là một khác biệt, với những họa tiết trang trí hình thuyền, trên đó là những cảnh tượng sinh động về cuộc sống của những chiến binh đánh thủy, được diễn tả khá chi tiết, chẳng khác bao nhiêu so với thạp đồng Đào Thịnh I, Hợp Minh và trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ. Xuân Lập không phải là cá biệt, nhiều thạp đồng loại này, kích thước trung bình từ 20 -25 cm đường kính miệng, với chiều cao tương tự, cũng trình diễn những tổ hợp hoa văn thuyền người hoặc người hóa trang lông chim, người cách điệu hình cờ bay trên băng chủ đạo giữa thân thạp, phản ánh ngôn ngữ chung của nghệ thuật Đông Sơn.

Thạp đồng không nắp với bộ quai hình chữ U. Ảnh: internet

Thạp đồng là sản phẩm của văn hóa Đông Sơn còn nằm ở bối cảnh phát hiện ra chúng. Không nhiều trong số 280 chiếc thạp này được tìm thấy trôi nổi, ngoài khai quật khảo cổ học. Phần lớn chúng có trong các địa tầng khảo cổ học, đó là những di chỉ cư trú hoặc mộ táng (mộ đất, mộ thân cây khoét rỗng).

Phát hiện khảo cổ học cho hay, hai chiếc thạp đồng đẹp nhất là Đào Thịnh I và Hợp Minh là hai chiếc quan tài. Đào Thịnh I là quan tài của người được hỏa thiêu với tàn tích chứa bên trong là than tro và xương cháy dở. Hợp Minh lại là quan tài của tục hung táng, với một bộ hài cốt và nhiều đồ tùy táng chứa bên trong. Với những chiếc thạp đẹp như vậy, chắc chắn chủ nhân của chúng phải là những người ở đẳng cấp cao trong một xã hội Đông Sơn đã có sự phân hóa giàu nghèo, thân phận hèn sang khá đậm nét. Tuy nhiên, thoạt kỳ thủy, theo tôi, cả hai chiếc thạp nêu trên, cùng nhiều chiếc thạp khác nữa, không phải là đúc ra để làm quan tài. Chúng là những đồ đựng có hai tai hình bán khuyên hoặc chữ U dùng để treo, khi sàn nhà là vô cùng bất tiện. Treo còn là hình thức để tôn thờ, mang ý nghĩa tâm linh của vật dụng, theo đó, là rượu thờ, rượu dùng cho lễ hội cầu mùa được sở hữu từ những già làng, tiên chỉ. Rất có thể, chúng còn để đựng hạt giống cho mùa màng, mà tín ngưỡng phồn thực nảy nở sinh sôi còn đọng hằn khá rõ trên các hình tượng hoa văn, khi mà đời sống của người Việt cổ thời Đông Sơn có nhiều nghi lễ liên quan tới mùa màng, nay còn sót lại như những “hóa thạch” ở một số cộng đồng cư dân miền núi phía Bắc, trong đó có người Mãng Ư, được cố Giáo sư Nguyễn Từ Chi phác dựng cả một quy trình, kể từ khi chọc lỗ gieo hạt cho đến lúc thu hoạch, cất giữ trong kho hay trong những chiếc thạp đồng đựng hạt giống cũng phải là những người có uy tín trong cộng đồng sở hữu. Rồi, người tiên chỉ, già làng ấy mất, họ dùng nó để làm quan tài, chôn theo, như thể, sang thế giới bên kia, họ vẫn là con người ấy, đẳng cấp xã hội ấy, vẫn vai trò ấy trong cộng đồng.

Văn hóa Đông Sơn – văn hóa của thạp đồng còn được thể hiện ở việc so sánh với những văn hóa khác trong khu vực. Có thể nói, trong thời đại đồng – sắt sớm ở Đông Nam Á lục địa và hải đảo, thạp đồng dường như là sản phẩm duy nhất của văn hóa Đông Sơn. Riêng miền Nam Trung Quốc, có khoảng 19 thạp đồng trong mộ Nam Việt Vương, Bắc Linh Tùng (Quảng Đông), La Bạc Loan, Cao Trại và địa điểm Ung Giang (Quảng Tây), mộ Thiên Tử Miếu (Vân Nam). Như vậy, Lưỡng Quảng và Vân Nam là ba tỉnh phát hiện được thạp đồng. Tôi đã từng cho rằng, ba đỉnh cao của tam giác thời đại đồ đồng – sắt sớm, đó là Bắc Việt Nam, Lưỡng Quảng và Vân Quý (Vân Nam, Quý Châu), có sức thu phát sóng cực mạnh. Chúng tiếp nhận, lan tỏa và ảnh hưởng qua lại, được thể hiện rất rõ trong bộ di vật đồng qua kiểu dáng và hoa văn. Việc tìm thấy những chiếc thạp đồng ở Lưỡng Quảng và Vân Nam sẽ có hai tình huống xảy ra. Một là, trao đổi hàng lấy hàng, qua đường biển và dòng sông Hồng. Hai là, trao đổi công nghệ, khi trung tâm Lưỡng Quảng và Vân Quý đủ sức tiếp nhận kỹ thuật đúc đồng của người Lạc Việt, để làm ra những chiếc thạp đồng khá giống với những chiếc thạp Đông Sơn. Cách đây hơn 20 năm, tôi có ghé thăm Bảo tàng Guimer của Pháp, khi ấy đang trùng tu, sửa chữa. Người quản thủ thân thiện, chuyên gia về nghệ thuật Phương Đông, dẫn vào kho, cho xem một chiếc thạp đồng dáng xô, cỡ trung bình, vừa mua đấu giá được ở Paris. Anh có hỏi tôi về nguồn gốc, xuất xứ chiếc thạp ấy qua những hoa văn khá khác lạ so với những chiếc thạp đã biết từ trước tới khi ấy ở miền Bắc Việt Nam. Một trong những họa tiết hoa văn khác lạ, đó là hình ảnh con cá, diễn tả theo kỹ thuật “giải phẫu” (xương sống, xương sườn và vây…thấy cả bên trong). Phương pháp và kỹ thuật X quang đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến, như một hằng số của nghệ thuật giải phẫu Đông Sơn, nhưng cá bơi trước mũi thuyền, chưa có tư liệu hơn hai mươi năm trước. Giờ đây, cá bơi trước thuyền và nhiều hoa văn kỳ thú khác đã thấy trên thạp Hợp Minh (Yên Bái). Mặc dù vậy, cá trên chiếc thạp ở Bảo tàng Guimer có sự khác biệt về chi tiết so với hình ảnh tương tự trên thạp, trên trống Đông Sơn. Tôi nghĩ rằng, đó là thạp vùng Nam Trung Quốc, du nhập kiểu dáng và kỹ thuật từ Đông Sơn Bắc Việt Nam.

Nói văn hóa Đông Sơn là văn hóa của những chiếc thạp đồng là chưa đủ. Nền văn hóa ấy còn là nền văn hóa của trống đồng, hoàn toàn khác biệt với văn hóa đỉnh – lịch vùng Trung Nguyên. Nó còn là văn hóa của những chiếc thố đồng, cũng ít thấy ở Nam Trung Hoa. Đó còn là văn hóa của những lưỡi cầy, dao gặt (vằng – nhíp), minh chứng cho một nền nông nghiệp trồng lúa nước đạt trình độ cao, khác biệt với bộ công cụ trồng kê, cao lương của Trung Nguyên Hoa Hạ… Những sự khác biệt ấy đã làm nên một bản sắc Đông Sơn, không thể bị đồng hóa trước sức mạnh bành trướng của văn hóa ngoại lai trong một nghìn năm thuộc Bắc.

Văn hóa Đông Sơn cho đến bầy giờ vẫn là một tấm gương lớn về dựng xây bản sắc trong một thế giới hội nhập như hiện nay.

Theo: TS. Phạm Quốc Quân

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Những điều thú vị quanh tượng người cõng nhau thổi khèn trong văn hóa Đông Sơn

Không phải ngẫu nhiên mà đợt phong tặng danh hiệu Bảo vật quốc gia lần đầu cho 30 hiện vật, có 2 trống đồng và 2 tượng đồng của văn hóa Đông Sơn. Hai trống đồng là Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, đã quá nổi tiếng. Tượng đồng người cầm đĩa đèn phát hiện ở Lạch Trường cũng xứng đáng là bảo vật và được nói đến nhiều. Thế còn bức tượng còn lại?

Đó là tượng người cõng nhau thổi khèn. Hết sức sinh động, có lẽ là một bức tượng đẹp nhất trong các khối tượng biết đến nay thuộc nền văn hóa Đông Sơn. Người Đông Sơn vốn giỏi đúc đồng. Họ cũng là tác giả của nhiều bức tượng từ gốm, đá đến chất liệu đồng thau. Nhưng có lẽ đẹp nhất phải kể đến tượng bằng đồng vì nó được miêu tả tinh mĩ hơn do cách làm khuôn uyển chuyển mềm mại hơn là đẽo đá, lại có được sắc óng vàng của chất liệu đồng thau đem lại.

Người Đông Sơn đã đúc thành công 5 cặp tượng người trên nắp thạp đồng Đào Thịnh miêu tả 5 đôi trai gái đang giao duyên khá hiện thực, còn thấy được cả giới tính người đàn ông, nếp khố, lưng còn đeo dao găm. Họ cũng đúc được các loại cóc gắn trên mặt trống đồng, tượng chó trên mặt trống minh khí, tượng hươu, tượng lợn. Một loạt tượng người, hổ, rắn trên cán dao găm khá đẹp mà nay người ta gọi là dòng nghệ thuật ứng dụng: kết hợp tạo tượng ghép với sự trang trí đồ vật. Cũng có khi có tượng người thổi khèn ngồi ở cán muôi đồng Việt Khê.

Nhưng phần lớn các tượng kể trên đều là tượng trong tư thế “tĩnh”. Còn bức tượng hai người cõng nhau thổi khèn lại trong tư thế “động”: người cõng thì chân cao, chân thấp, nhún nhảy như muốn bước thêm một bước nữa. Người ngồi trên lưng thì thổi khèn say sưa. Tượng được miêu tả trong điệu nhảy và trong điệu khèn. Cái khéo của tượng chính là miêu tả hết sức có hồn hai người đàn ông: người cõng đội khăn đầu rìu, đóng khố, đuôi khố thòng ra phía sau, chấm đất. Người xưa khéo xử lý đuôi khố để thành một chân tượng kết hợp với hai chân của người đang cõng, tạo thành cái thế “chân vạc” giúp tượng không có đế, nhưng có 3 điểm tựa vững chãi. Hai tay người cõng vòng ra sau, ôm lấy lưng người ngồi trên khá chắc chắn và hiện thực. Người ngồi trên lưng có tay cầm khèn, miệng ngậm khèn đang say sưa thổi. Cả hai người đều tết tóc thành đuôi tròn sau gáy, đeo đồ trang sức khá to ở tai. Các chi tiết như miệng, mắt, mũi đều được mô tả chi tiết.

 

Cả bức tượng sinh động nhường vậy nhưng lại có kích thước nhỏ: chiều cao 8,5cm rộng ngang 9,5cm. Mặc dù nhỏ, nhưng lại là tuyệt tác về nghệ thuật, chuyên chở được cái “thần thái” của nghệ thuật tạo tượng Đông Sơn: cái chất sống động, kết hợp giữa tạo dáng với tạo văn: một số hoa văn khắc vạch có mặt trên tóc, trên tay. Đây cũng còn là một tuyệt tác về đúc đồng. Vào thời điểm đúc tượng, người nghệ nhân đúc tượng làm khuôn bằng đất. Qua quan sát, có thể thấy tượng đúc liền khối chứ không chắp vá, chứng tỏ kỹ nghệ làm khuôn rất giỏi, phải có cách tạo khuôn ghép nhiều bộ phận nhỏ, mới tạo ra được các khối thanh mảnh, các chỗ lồi lõm, mà khi đúc, nước đồng vẫn điền đầy chi tiết.

Tượng người cõng nhau thổi khèn còn chứa chất khá nhiều thông điệp về lịch sử thời văn hóa Đông Sơn. Niên đại của tượng vào khoảng vài trăm năm trước Công Nguyên. Qua đó, ta biết được thời điểm này, người Việt cổ rất lạc quan, tâm thái của tượng có cái chất phơi phới, vô tư, đúng như thư tịch cũ còn ghi lại: vào thời Hùng Vương, Vua tôi hòa nước sông chén rượu ngọt ngào, cùng nhau vui chơi vô sự, gọi là đời rất hồn nhiên.

Tượng cũng cho thấy hình ảnh của cây khèn đang được thổi, đó là một loại nhạc cụ được khắc họa trên trống đồng, rìu đồng, tượng người thổi khèn còn trên cán muôi. Đây là nhạc cụ phổ biến thời Hùng Vương. Chúng ta có thể thấy một dàn nhạc có bộ gõ (trống, chuông, chiêng) bộ hơi (khèn) đã làm nên một dạng hòa âm đặc biệt của thời này. Khèn cũng là một dụng cụ âm nhạc tồn tại khá lâu, cho đến nay, nhiều dân tộc ở miền núi nước ta vẫn coi khèn là nhạc cụ không thể thiếu của dân tộc mình như người H’Mông, người Tây Nguyên. Qua cây khèn bè và những so sánh dân tộc học, có thể đoán định vào thời văn hóa Đông Sơn của các Vua Hùng, có nhiều tộc người khác nhau cùng tham gia khai phá và dựng nước, họ cũng đều là các tộc người thích âm nhạc, nhất là khèn.

Tượng còn cho thấy một nét sinh hoạt văn nghệ đương thời: múa nhảy. Người Việt cổ vừa thổi khèn, vừa múa nhảy. Qua hình tượng đã có thể khẳng định thêm các tư liệu khảo cổ đã biết: người xưa đã có múa nhảy. Họ đã đeo khá nhiều vòng có gắn nhạc đồng, mà các nhà khoa học gọi là vòng ống. Đeo vòng ống dọc bắp tay, cánh tay, cổ chân. Một số khuyên tai, xà tích cũng gắn nhạc. Đến khi nhảy, múa, tiếng nhạc rung lên lanh canh, rộn ràng. Việc múa và nhảy trong sinh hoạt văn hóa là đặc điểm của Đông Sơn, phần lớn được thực hiện trong các ngày hội như mừng năm mới, mừng cơm mới, cưới xin… Ngày nay, các điệu múa, nhảy ít còn thấy trong cộng đồng người Việt Nam. Chỉ còn đôi nét múa nhảy còn thể hiện ở các điệu múa nhảy truyền thống như ca nữ đánh bồng mà thôi.

Cũng cần nhớ lại bức tượng người cõng nhau thổi khèn đã được tìm thấy ngay ở di chỉ khảo cổ học Đông Sơn nổi tiếng cách đây khoảng 80 năm trong cuộc khai quật của một người Pháp tên là Pajot. Tượng đang được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia Việt Nam. Tượng còn quý ở chỗ có giá trị độc bản. Không thấy những bức tượng nhảy múa sinh động giống thế trong nền văn hóa Đông Sơn, mặc dù đã có hàng trăm làng cổ và khu mộ cổ của nền văn hóa này được khai quật.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

 

Chạm vào 4.000 năm của cha ông

Khi những nhát cuốc đầu tiên bổ xuống cánh đồng Đình Chàng (còn gọi là Đình Tràng, thuộc xã Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội), các nhà khoa học ngỡ ngàng khi phát hiện không chỉ một mà cả bốn tầng văn hóa của nền văn minh sông Hồng: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.

 

Mộ táng còn khá nguyên vẹn của lớp văn hóa Đông Sơn – Ảnh: VƯƠNG ANH

Ngoài các hiện vật đồ đá, đồ gốm và đồ đồng đạt đến độ tinh xảo của kỹ thuật chế tác còn có hệ thống mộ táng, thành lũy, lò đúc đồng cho phép các nhà khảo cổ học có cái nhìn sâu sắc hơn về đời sống của cha ông 4.000 năm về trước.

Tay nâng niu lưỡi cắt bằng đá quý xanh ngọc của lớp văn hóa sâu nhất: văn hóa Phùng Nguyên, TS Nguyễn Hải Kế – chủ nhiệm khoa lịch sử Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội – xúc động: “Hiện vật đẹp quá! Sau 4.000 năm ta lại chạm vào cha ông”.

Cả một nền văn minh hiện hữu

Bóc tách từng lớp đất, TS Lại Văn Tới (Viện Khảo cổ học) khẳng định: Nếu như Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội) chỉ có một tầng văn hóa là Đồng Đậu thì ở Đình Chàng, hội tụ cả bốn tầng văn hóa của nền văn minh sông Hồng.

“Ở tầng văn hóa sâu nhất – Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều minh chứng về nơi cư trú như bếp lửa, tro than, xương động vật bị đốt cháy, vỏ nhuyễn thể… Phùng Nguyên chỉ có đồ đá, đồ gốm và đạt đến đỉnh cao nhất của kỹ thuật chế tác. Nó nằm ở lớp sâu nhất của địa tầng” – TS Lại Văn Tới, phụ trách hố khai quật, cho biết. Đặc biệt, những hiện vật thuộc lớp văn hóa Phùng Nguyên còn hé mở về cách thức trang trí và mỹ cảm của người Việt cổ. Trong số các mảnh gốm được tìm thấy có cả tượng một con rùa đang bơi, một loài bốn chân đầu giống đầu rùa và thân giống hải cẩu… Độc đáo hơn, trên một chạc gốm còn có hình vẽ khuôn mặt của một phụ nữ. Tại hố khai quật còn xuất hiện khá nhiều mộ táng Phùng Nguyên và Đồng Đậu cùng các loại trang sức được chôn theo. Trong các mộ táng Phùng Nguyên chỉ còn tồn tại một ít xương răng, các hạt chuỗi và mảnh vòng được chế tác rất tinh tế.

Bảy mộ táng Đông Sơn còn khá nguyên vẹn với hệ thống xương cốt và các trang sức bằng đồng tinh xảo. Người Đông Sơn chôn người chết khá sâu, có ba mộ táng được chôn sát đất sinh thổ, gần với mộ táng Phùng Nguyên. Điều đặc biệt thú vị là các lớp văn hóa từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn phân cách nhau khá rõ ràng. Sát mặt đất là lớp văn hóa Đông Sơn rồi đến Gò Mun, Đồng Đậu, cuối cùng là Phùng Nguyên. Đặc biệt, giữa lớp văn hóa Gò Mun và Đồng Đậu được chia tách với nhau bởi một lớp đất vô sinh ngăn cách. Phát hiện này giúp các nhà khảo cổ khẳng định quá trình chuyển biến liên tục nhưng rõ rệt giữa các nền văn hóa của văn minh sông Hồng.

Lò đúc đồng và lũy tiền tiêu?

Ngay khi khai quật lớp văn hóa Đông Sơn đầu tiên, không ít nhà khảo cổ học đã ngỡ ngàng trước một hệ thống 45 bếp lò bố trí dày đặc theo hướng tây bắc – đông nam. Ngoài ra, một lượng lớn nồi nấu đồng, khuôn đúc đồng và các hiện vật bằng đồng thau xuất hiện dày đặc trên một diện tích khai quật chỉ 300m2. TS Lại Văn Tới cho biết người Việt từ hàng ngàn năm trước đã rất tiến bộ trong việc xây dựng các bếp lò đúc đồng. Bếp dù được đắp bằng đất nhưng bên trong lại được gia cố bằng một hệ thống tre đan thành khung.

Những kết quả khai quật của sáu lần trước đó, các nhà khoa học chỉ dám khẳng định đây là khu vực cư trú và mộ táng của cư dân Đình Chàng. Tuy nhiên, TS Tới khẳng định: Với phát hiện hệ thống bếp lò, chúng ta có thể dự đoán đây là công xưởng sản xuất đồ đồng. Bên cạnh đó, khi đào đến các tầng văn hóa bên dưới, TS Tới và nhóm khảo cổ lại có thêm một phát hiện thú vị khác, đó là hệ thống lỗ chân cột cũng phân bố theo hướng đông bắc – tây nam. Một dãy bao gồm 11 hố chân cột, một dãy có 16 hố chân cột với khoảng cách giữa các hố khác đều nhau. Phía ngoài hố chân cột, nền đất thoải xuống, xuất hiện than được tạo thành do cây cối bị vùi lấp.

Từ những phát hiện này, nhóm khai quật chắc chắn đây là hệ thống chân cột gia cố bờ sông Hoàng Giang. Hơn nữa, xét trong quan hệ với thành Cổ Loa thì đây có thể là lũy tiền tiêu của thành Cổ Loa. TS Tới tiếc rẻ nhìn sang phía bên kia đường: “Theo khảo sát thì phía đó mật độ hiện vật còn dày đặc và đẹp hơn cả bên này. Trong khoảng 20.000m2 khu vực Đình Chàng đâu đâu cũng có hiện vật khảo cổ. Tuy nhiên, đến giờ tôi cũng bó tay, không thể đào tiếp sang được nữa”.

Một phần hố chân cột được dự đoán là lũy tiền tiêu của thành Cổ Loa – Ảnh: VƯƠNG ANH

Dù đây là lần khai quật thứ bảy song vẫn thực hiện theo cách thức đào hố. TS Lại Văn Tới bày tỏ: Đây vẫn là cách khai quật cổ điển suốt hàng chục năm nay, các nhà khảo cổ vẫn làm khoa học “theo kiểu ô ăn quan, đào đến đâu biết đến đấy”. Nguyên nhân của hiện tượng này, TS Tới giải thích từ xưa đến nay các nhà khảo cổ thiếu gắn kết, anh nào đào biết anh đấy. Hơn nữa, trong vòng 40 năm qua, các tỉnh cứ tách ra nhập vào, theo đó, hiện vật cũng chia đi chia lại dẫn đến những mất mát không tránh khỏi.

Mới đây, tại cuộc họp báo công bố kết quả khai quật ở khu vực Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội), PGS.TS Hán Văn Khẩn cảm thán: Hầu hết các di tích đều được khai quật liên tục từ 40 năm nay nhưng tài liệu các lần khai quật trước ở đâu? Di tích luôn có sự biến đổi nhưng chúng ta không giữ được tài liệu thì sau này sẽ làm thế nào? PGS.TS Tống Trung Tín – viện trưởng Viện Khảo cổ học – lý giải những bất cập trong khai quật khảo cổ hiện nay do cơ chế quản lý không thống nhất suốt một thời gian dài, mỗi nơi làm mỗi kiểu.

Nguồn tin: tuoitre.vn

Khám phá trống đồng Ngọc Lũ

Trống đồng Ngọc Lũ được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia đợt 1 theo Quyết định số 1426/QĐ-TTg ngày 01/10/2012.

Trống thuộc văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.000 – 2.500 năm; có kích thước: đường kính mặt: 79,3 cm; đường kính chân: 80 cm; cao: 63 cm; được phát hiện khi đắp đê Trần Thủy tại xã Như Trác, huyện Nam Xang (nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) năm 1893, sau đó được đưa về thờ tại đình làng Ngọc Lũ (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Tháng 4 năm 1903, trống được Viện Viễn Đông Bác cổ sưu tầm và sau đó được lưu giữ tại Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).

Trống đồng Ngọc Lũ


Bản vẽ mặt đứng trống đồng Ngọc Lũ


Hoa văn trang trí trên mặt trống đồng Ngọc Lũ

Mặt trống trang trí hình mặt trời 14 tia, giữa các tia trang trí hoa văn lông đuôi chim công. Tiếp đến là 16 vành hoa văn, phân cách giữa các vành là những đường gờ nổi.


Hình mặt trời 14 tia giữa mặt trống. Xen giữa mỗi tia là họa tiết lông đuôi chim công

Vành số 1, 5, 11, 16 là hoa văn chấm nhỏ. Vành số 2, 4, 7, 9, 13, 14 là hoa văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành số 3 là hoa văn hình chữ N gấp khúc nối tiếp.

Vành số 6, 8, 10 là các vành hoa văn chủ đạo.

Vành số 6 trang trí hình người nhảy múa, nhà cầu mùa mái vòm, nhà sàn mái cong, người giã gạo, cảnh đánh trống đồng… đối xứng qua tâm, chia thành 5 nhóm:

– Nhóm thứ nhất trang trí hình người nhảy múa, từ trái sang phải, có 6 đến 7 người. Trong số đó, có 1 người không đội mũ, 6 người còn lại đội mũ lông chim; 5 người cầm giáo. Nhóm 6 người đối xứng với nhóm 7 người, đều đội mũ lông chim, mặc váy hai vạt, vừa đi vừa múa, 1 người cầm rìu, 1 người thổi khèn, và 4 người cầm giáo.


Hình người hóa trang lông chim, tay cầm nhạc cụ hoặc vũ khí trong tư thế chuyển động về phía trước


Nhạc công đầu đội mũ lông chim vừa chơi nhạc, thổi khèn, vừa nhảy múa

– Nhóm thứ hai là hình nhà cầu mùa mái vòm, trang trí người búi tóc, trong tư thế hành lễ, hai bên vách là họa tiết vòng tròn chấm giữa.


Hình nhà cầu mùa mái vòm. Hai bên vách trang trí vòng tròn chấm giữa. Trong nhà có người đứng hành lễ, hai tay cầm vật gì đó giơ cao


Hình nhạc công với chim mỏ ngắn, đầu tròn bay ở phía trên

– Nhóm thứ ba trang trí hình đôi trai gái đang cầm chày giã gạo. Bên trái có một người hướng về phía ngôi nhà mái vòm, trên đầu có 1 con chim đang bay.


Hình đôi nam – nữ giã gạo

– Nhóm thứ tư trang trí hình nhà sàn mái cong, trên nóc nhà có 1 con chim đuôi dài đậu. Đối xứng với chim đuôi dài là một ngôi nhà sàn mái cong khác, trên nóc nhà có cặp chim trống – mái. Trong nhà có 2 người ngồi đối diện trong tư thế đầu ngẩng cao, ngửa ra sau, tóc xõa, đang hát giao duyên hoặc chơi trò chồng nụ chồng hoa. Bên phải, phía dưới hiên nhà có 1 người ngồi, đối diện có 1 chiếc trống đồng nằm ngang.


Hình nhà sàn mái cong với một cặp chim trống – mái đậu trên nóc. Trong nhà có hai người tóc xõa ngồi đối diện, đang hát giao duyên hoặc chơi chồng nụ chồng hoa. Đầu hồi bên phải có một người ngồi đánh trống. Phía hồi đối diện có một chiếc trống đồng nằm nghiêng.

– Nhóm thứ năm trang trí cảnh đánh trống đồng đối xứng. Cảnh thứ nhất gồm 4 người búi tóc ngồi phía bên phải, tay cầm gậy dài chấm đến sàn. Cảnh thứ hai cũng có 4 người, trong đó có 1 người đứng, tay cầm gậy. 3 người còn lại ngồi tay cầm gậy dài chấm đến sàn. Phía dưới có 4 chiếc trống đồng xếp thành một dãy.

Vành số 8 có 2 nhóm hươu, tổng cộng 20 con, mỗi nhóm 10 con, đực cái xen kẽ, xen kẽ giữa các nhóm là 14 con chim lạc, với hai nhóm 6 con và 8 con, hướng ngược chiều kim đồng hồ.

Vành số 10 là 36 con chim, trong đó có 18 con bay và 18 con đậu, ngược chiều kim đồng hồ.

Vành số 12, 15 là hoa văn răng cưa. Viền mặt trống không có hoa văn, có vết con kê hình vuông không đều nhau.

Tang trống có 10 vành hoa văn. Vành số 1, 6, 8, 10 là hoa văn vòng tròn chấm nhỏ. Vòng số 2, 5 là hoa văn răng cưa. Vành số 3, 4 là hoa văn vòng tròn chấm giữa tiếp tuyến song song. Vành số 7 là hoa văn người hóa trang lông chim đua thuyền và chim cốc. 6 hình thuyền đi từ trái sang phải, thuyền thứ 1 có 5 người, thuyền thứ 4 có 6 người, thuyền thứ 2, 3, 5, 6 có 7 người, các nhân vật như thuyền trưởng, thủy thủ, người cầm lái, người bắn tên, người giết tù binh, tù binh…


Hình thuyền chiến 1. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 4 người và 1 con chó săn. Giữa thuyền có thể là người chỉ huy, một tay cầm dùi đánh trống da, tay còn lại cầm rìu chiến. Phía đuôi thuyền có 1 người cầm lái. Một chiến binh ngồi trước mũi thuyền, tay cầm rìu chiến. Trên đài quan sát có 1 chiến binh đứng ngược hướng thuyền chạy, hai tay giơ cao cung nỏ. Dưới đài có trống đồng để ngửa và bình đồng.


Hình thuyền chiến 2. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người và 1 con chó săn. Giữa thuyền là người chỉ huy, một tay đánh trống da, một tay đang túm tóc kéo lê 1 tù binh lõa thể và 1 chiến binh một tay cầm giáo, một tay kéo lê 1 tù binh lõa thể khác. Phía đuôi thuyền có 1 thủy thủy cầm lái. Một chiến binh ngồi trước mũi thuyền, tay cầm rìu chiến. Trên đài quan sát có 1 chiến binh đứng ngược hướng thuyền chạy, hai tay giơ cao cung nỏ. Dưới đài có trống đồng để ngửa.


Hình thuyền chiến 3. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 6 người. Giữa thuyền là người chỉ huy, một tay đánh trống da, một tay kéo lê 1 tù binh lõa thể, 1 chiến binh đang một tay cầm rìu, một tay cầm giáo chuẩn bị đâm tù binh. Phía mũi thuyền có 1chiến binh ngồi, tay cầm rìu chiến. Trên đài quan sát có 1 chiến binh đứng xuôi hướng thuyền chạy, hai tay giương cung bắn tên. Người cầm lái cũng cầm cung tên.


Hình thuyền chiến 4. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người. Giữa thuyền là người chỉ huy, một tay đánh trống da, một tay kéo lê 1 tù binh lõa thể, 1 chiến binh cầm giáo chuẩn bị đâm tù binh. Phía mũi thuyền có 2 chiến binh ngồi, tay cầm rìu chiến. Đuôi thuyền có 1 người cầm lái. Trên đài quan sát có 1 chiến binh đứng xuôi hướng thuyền chạy, hai tay giương cung bắn tên. Dưới đài có một chiếc bình đồng.


Hình thuyền chiến 5. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người. Giữa thuyền là người chỉ huy, hai tay thúc trống da và 1chiến binh một tay túm tóc, một tay cầm giáo đâm vào đầu tù binh. Phía mũi thuyền có 2 chiến binh ngồi, tay cầm rìu chiến. Đuôi thuyền là người cầm lái. Chiến binh giương cung đứng trên đài quan sát xoay ngược hướng thuyền chạy. Dưới đài có một chiếc trống đồng.


Hình thuyền chiến 6. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền hình vòng tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người. Giữa thuyền là người chỉ huy một tay đánh trống, một tay túm đầu tù binh, 1 chiến binh một tay cầm giáo đâm ngập đầu tù binh, tay còn lại cầm giáo huơ cao. Phía mũi thuyền có 1 chiến binh ngồi, tay cầm rìu chiến và 1 chiến binh đứng sau, một tay cầm giáo, tay kia cầm cờ. Người cầm lái trong tư thế ngồi. Chiến binh giương cung đứng trên đài quan sát xoay xuôi hướng thuyền chạy. Dưới đài có trống đồng đặt úp.


Hình chiến binh trên thân trống, được thể hiện trong 8 ô, mỗi ô có hai chiến binh đầu đội mũ lông chim, một tay cầm rìu chiến, một tay cầm mộc.

Thân trống có 10 vành hoa văn. Vành số 1, 3, 5, 10 là hoa văn chấm nổi, vành số 2 là hoa văn chữ V lồng nhau, hoa văn chấm, giữa hoa văn gân lá có hoa văn hai vòng đồng tâm tiếp tuyến, chia làm 8 ô theo chiều dọc. Mỗi ô có 2 người múa. Trên đầu người múa đội mũ, mặc váy, tay trái cầm mộc, tay phải cầm rìu, vừa đi vừa múa.


Hình chim đầu tròn mỏ ngắn đang bay và cặp hươu đực – cái xen kẽ


Hình chim Lạc đang bay xen kẽ chim mỏ ngắn đang đậu

Phần chân trống trơn không trang trí hoa văn. Bốn quai trống dẹt, trang trí văn thừng tết.

Trống đồng Ngọc Lũ thuộc loại HI theo phân loại của học giả Áo F.Héger, là chiếc trống đẹp, tinh xảo, nguyên vẹn và có hình dáng cân đối, hài hòa nhất trong những trống Đông Sơn đã phát hiện. Ngoài chức năng chính là một loại nhạc cụ quan trọng, cũng như các trống đồng Đông Sơn khác, trống đồng Ngọc Lũ còn là biểu tượng quyền lực của các thủ lĩnh Đông Sơn.


Hình người ngồi trên sàn cao đánh trống đồng, hoặc đang phá khuôn sau khi đúc trống đồng

Trống đồng Ngọc Lũ không chỉ thể hiện trình độ đúc đồng đỉnh cao mà còn là tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho tài năng sáng tạo của người Việt cổ, lả biểu tượng của văn hóa Việt Nam.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Về bốn chiếc ấn thời Tây Sơn

Trong một bộ sưu tập tư nhân ở TP. Hồ Chí Minh, hiện lưu giữ bốn chiếc ấn thời Tây Sơn, hai chiếc được tìm thấy ở huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định và hai chiếc tìm thấy ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Bốn chiếc ấn đều bằng đồng, chế tạo thủ công theo cùng một phương pháp đúc và gia công kim loại, nên có cùng một kích thước: dày 0,7cm, rộng 11cm, cao 5,5cm, nặng 750gr.


Một bộ sưu tập ấn triện ở TP Hồ Chí Minh (ảnh chỉ mang tính minh họa). Ảnh: VNN

Mỗi chiếc ấn đều có hai phần: núm và thân. Núm cao 4,5cm có hình con tiện đầu tròn, lưng ấn có hai bậc cấp. Trên hai cạnh dọc của bậc cấp trên có hai hàng chữ Hán khắc vạch kiểu chân, hàng phải ghi ngày tháng năm tạo ấn, hàng trái ghi tên ấn. Mặt ấn khắc tên ấn chữ Hán triện, nét khắc dày, rõ.

Chiếc ấn thứ nhất, tìm thấy ở huyện Vĩnh Thạnh năm 1994. Hàng chữ dọc bên phải lưng ấn ghi: “Tân Hợi niên đông tạo” (làm vào mùa đông năm Tân Hợi – 1791, tức năm thứ 4 niên hiệu Quang Trung, năm thứ 14 niên hiệu Thái Đức), hàng chữ dọc phía trái gồm bảy chữ: “Khâm Sai Tiền Thủy Chi Đô Đốc” (Đô đốc vua sai chỉ huy tiền quân của thủy binh). Mặt ấn có bảy chữ Hán triện: “Khâm sai/ Tiền Thủy chi/ Đô đốc”.

Chiếc ấn thứ hai cũng tìm thấy ở Vĩnh Thạnh, năm 1997. Hàng chữ bên phải lưng ấn ghi: “Bính Thìn niên quí đông nguyệt cát nhật tạo” (làm ngày tốt tháng 12 năm Bính Thìn – 1796, tức năm thứ 5 niên hiệu Cảnh Thịnh), hàng chữ dọc bên trái ghi: “Trung thủy chi Đại Đô đốc (Đại Đô đốc chỉ huy trung quân của thủy binh). Mặt ấn có sáu chữ Hán: “Trung thủy chi/ Đại Đô đốc”.

Chiếc ấn thứ ba được tìm thấy ở huyện Thăng Bình (Quảng Nam) năm 1999. Lưng ấn, hàng chữ dọc bên phải ghi: “Bính Thìn niên trọng xuân nguyệt cát nhật tạo” (làm ngày tốt tháng 2 năm Bính Thìn – 1796), hàng chữ dọc bên trái ghi: “Tả bật đạo Trung Định hữu dinh định hùng nhị vệ Đô ty” (Đô ty chỉ huy vệ định hùng thứ hai thuộc dinh phía phải mang tên Trung Định của đạo quân tả bật). Mặt ấn có 13 chữ Hán triện: “Tả Bật đạo Trung Định / Hữu dinh định hùng / Nhị vệ Đô ty”.

Chiếc ấn thứ tư cũng được tìm thấy ở Thăng Bình cùng thời điểm với chiếc ấn thứ ba. Hàng chữ dọc bên phải lưng ấn ghi: “Đinh Tỵ niên mạnh xuân nguyệt cát nhật tạo” (làm ngày tốt tháng 1 năm Đinh Tỵ – 1797, tức năm thứ 6 niên hiệu Cảnh Thịnh), hàng chữ dọc bên trái ghi: “Trinh Hùng vệ phụng thất hiệu Phó Đô ty” (Phó Đô ty phụng mệnh chỉ huy hiệu thứ bảy trong vệ quân Trinh Hùng). Mặt ấn có 9 chữ Hán triện: “Trinh Hùng vệ phụng thất hiệu/ Phó Đô ty”.

Căn cứ những yếu tố trên, đối chiếu với sử liệu, có thể xác định về niên đại, triều đại cũng như chủ nhân của chúng. Bốn chức quan trong ấn: Đại Đô đốc, Đô đốc, Đô ty và Phó Đô ty. Đại Đô đốc, Đô đốc là những chức quan võ cao cấp được nhắc dưới thời Lê và dưới thời Tây Sơn, không thấy dưới thời Nguyễn. Còn Đô ty là võ quan chỉ huy một vệ quân và Phó Đô ty là cấp võ quan chỉ huy một hiệu của vệ quân thời Tây Sơn. Qua chiếc ấn thứ ba, ta thấy hệ thống đơn vị quân đội được sắp xếp: lớn nhất là “đạo”, kế tiếp là “dinh” rồi đến “vệ”. Binh chế nhà Lê, nhà Nguyễn không có đơn vị “đạo”. Về kiểu dáng, bốn chiếc ấn cùng có một mẫu với chiếc ấn thời Tây Sơn đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà Nội).

Bốn chiếc ấn trên là những hiện vật quý, bởi hiện vật thời Tây Sơn, nhất là các hiện vật có niên đại tuyệt đối, còn lại không nhiều. Thông qua những hiện vật, chúng ta biết thêm thông tin về quân đội thời Tây Sơn như: phiên hiệu, đơn vị, chức quan.

Nguồn: Báo Bình Định (baobinhdinh.com.vn)

Khám phá trống đồng Hoàng Hạ

Mỗi một cổ vật được phong làm Bảo vật Quốc gia đều phải hết sức quý giá, lại độc bản. Thêm nữa, như số phận đời người, những bảo vật này có thể kể cho chúng ta biết bao nhiêu là chuyện.

Trống Hoàng Hạ được các nhà khoa học coi là “Á Hậu” trong cuộc thi vẻ đẹp của trống đồng Đông Sơn ở ta. Mà trống Hoàng Hạ đẹp thật, có lẽ chỉ kém trống Ngọc Lũ đương kim “Hoa Hậu” tí tí. Trống có dáng đẹp, thân trống chia ba phần cân đối. Đường kính mặt 78,5cm chiều cao 61,5cm. Trang trí giữa mặt trống là hình ngôi sao có 16 cánh. Xung quanh ngôi sao là 15 vành hoa văn, có những hoa văn đẹp và hiện thực như: hình 14 con chim bay mỏ dài, đuôi xòe và chân dài. Lại có vành hoa văn người múa hóa trang đang cầm giáo đồng, rìu đồng và khèn bè trong cảnh một ngày hội mùa hay hội làng náo nhiệt. Có cả cảnh hai ngôi nhà sàn mái cong, trên nóc có hình chim đậu, bên trong có cảnh người ngồi đánh trống da, hình trống đồng và cảnh đôi nam nữ ngồi giữa nhà đang đập tay vào nhau như một trò hát đối đáp xưa kia. Nối với căn nhà sàn mái cong này là một sàn nhà khác có cảnh 4 người đang ngồi đánh trống đồng, cầm dùi gõ thẳng xuống 4 chiếc trống đồng đang úp sấp. Gần đó là cảnh đôi trai gái đang giã gạo chày tay. Kế tiếp là hai ngôi nhà sàn đối xứng nhau qua tâm trống có mái cong và đôi chim đang đậu trên nóc. Dường như người nghệ sĩ xưa muốn biểu thị không khí ngày hội có nhiều nét giống với ngày hội của các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay, cũng có cảnh trai gái trong trang phục ngày hội đang múa vòng tròn quanh cột thiêng chuẩn bị đâm trâu.


Trống đồng Hoàng Hạ


Hình người chèo thuyền và chim ngậm mồi trên tang trống Hoàng Hạ


Vùng trũng bốn huyện phía nam Hà Nội: trước văn hóa Đông Sơn chưa có người cư trú. Sau đó, làn sóng dân vùng cao tràn xuống khai hoang, cũng là nơi đào được trống Hoàng Hạ.

Tang trống miêu tả một đoàn thuyền gồm 6 chiếc. Trên thuyền có hoa văn người đánh trống, người hóa trang đội mũ cắm lông chim cầm giáo, người ngồi đánh trống, người cầm mái chèo. Trên mỗi thuyền lại có lầu cao, tầng dưới để trống đồng, tầng trên có người dương cung chuẩn bị bắn. Lại còn có cảnh một người tay cầm giáo, tay khác túm tóc một người đang trần truồng như trong cảnh chuẩn bị giết tù binh làm lễ hiến tế. Xen giữa các thuyền là các hình chim đứng và dưới các chiếc thuyền là hoa văn hình cá bơi. Phần giữa thân gọi là lưng trống có cảnh chiến binh đang cầm rìu chiến và cũng được hóa trang lông chim.

Hoa văn trên trống đồng Hoàng Hạ đại thể là như vậy, thuộc loại trống Đông Sơn có những hoa văn hiện thực tả người, chim, nhà sàn, thuyền đẹp nhất trong nhóm trống đứng đầu về nghệ thuật tạo hình là Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà và Cổ Loa. Người xưa tạo ra những hoa văn tuyệt mĩ như vậy, nhưng không phải là vô tình, mà đều là biểu tượng. Mỗi hoa văn đều mang ý nghĩa nhất định, mà cho đến nay, mỗi học giả trong và ngoài nước đều giải mã một cách khác nhau. Thế mới biết cái ngôn ngữ nghệ thuật thật là đa nghĩa. Xưa cũng vậy mà nay cũng thế.

Người đầu tiên cho rằng trống đồng Hoàng Hạ là một công cụ lịch pháp của người Việt cổ là nhà nghiên cứu Bùi Huy Hồng. Ông cho rằng trống này là công cụ để đo bóng mặt trời để biết thời điểm ngày Xuân Phân hay Thu Phân, Đông Chí hay Hạ Chí tương ứng với các ký hiệu hoa văn trên mặt trống. Cách đây hơn 40 năm, ông đã có một thí nghiệm đo bóng mặt trời trên trống Hoàng Hạ, đặt trống thăng bằng úp trên mặt đất rồi dùng dây dọi đặt cột đo cao 345 mm đứng ở giữa tâm trống (độ cao của cột đo bóng nắng trong thí nghiệm ngày nay). Kết quả là khi nào bóng của đầu chiếc cột đo lúc giữa trưa ngả đúng vào đường giữa dây cung hoa văn trên trống thì ngày đó là ngày Xuân Phân hay Thu Phân. Theo ông, chính mặt chiếc trống đồng tìm được ở Hà Nội này là một chiếc đồng hồ mặt trời, một tấm lịch, một bức Thiên Đồ của thời Hùng Vương.

Cách kiến giải của ông Bùi Huy Hồng đã gây ra tranh cãi trong giới khoa học. Cũng chẳng rõ người xưa có coi trống Hoàng Hạ là lịch pháp hay không, nhưng rõ ràng cũng là một cách gợi ý giải mã hoa văn đáng lưu ý. Người Việt xưa không phải vô tình tạo ra các hoa văn chỉ đơn thuần là chạy theo cái đẹp. Qua hoa văn trống Hoàng Hạ và so sánh nhiều nguồn tư liệu thì nhiều nhà khoa học cho rằng đoàn người cầm vũ khí quanh hình mặt trời (được thể hiện là ngôi sao 16 cánh) có liên quan đến lễ hội. Có thể là lễ hội đâm trâu hay đâm bò, mà trên một chiếc trống Đông Sơn cùng thời còn có nguyên cảnh này với cây cột thiêng cột chặt một con bò có u và cạnh đó là chiến binh cầm rìu bổ xuống. Tang trống Hoàng Hạ thì có cảnh hiến tế trên thuyền, liên quan đến lễ hội cầu nước phổ biến ở nhiều vùng nước ta.

Trống Hoàng Hạ còn giúp các nhà sử học dựng được bức tranh lịch sử của thủ đô Hà Nội cách đây hơn 2000 năm. Trống được phát hiện ở độ sâu 1,5m trong lòng đất ngày 13 tháng 7 năm 1937 khi người dân đào mương ở xóm Nội, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên. Cái giá trị lịch sử nhất ở chỗ trống được phát hiện ngay trong lòng đất, chứng tỏ cư dân cổ đại ở đây phải là chủ nhân, từng sử dụng và chôn cất trống, chứ không phải sưu tập ngẫu nhiên ở đâu đó. Cũng tức là người Việt ở bên bờ sông Hồng là chủ nhân trống đồng. Bản quyền đúc những chiếc trống đẹp như Hoàng Hạ là tổ tiên chúng ta. Gần đây việc phát hiện ra một mảnh khuôn đúc trống lại càng khẳng định điều này.

Việc phát hiện trong lòng đất chiếc trống Hoàng Hạ ở Phú Xuyên lại giúp cho các nhà khảo cổ biết được nhiều điều bí ẩn của vùng đất này hơn nữa. Cách đây khoảng 5000 năm cả vùng Hà Nội ngày nay là vịnh biển, chỉ có …cá mới sống được. Đến thời điểm 4000 năm, khi nước biển rút đi (mà thuật ngữ khoa học gọi là thời kỳ biển thoái), thì đồng bằng mới lộ ra dần dần. Rồi lại phù sa sông Hồng bồi đắp mới có con người từ vùng núi và trung du đổ về khai hoang lập ấp. Một vài làng cổ còn để lại dấu tích trong lòng đất những đồ gốm, đồ đá, đồ đồng.

Tuy nhiên, không phải chỗ nào người cổ cũng lập làng được, mà chỉ ở những vùng đất cao ráo. Các vùng thấp như 4 huyện ngoại thành Hà Nội ngày nay là Phú Xuyên, Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức còn quá lầy lội chưa thích hợp với sự khai hoang. Trước thời kỳ văn hóa Đông Sơn, không có một di tích nào chứng tỏ có con người sinh sống ở các huyện này.

Chỉ đến thời điểm cách đây hơn 2000 năm, cái vùng trũng bốn huyện của Hà Nội mới được phù sa bồi đắp dần cao lên, người Việt mới tràn về ồ ạt để khai hoang, lập làng mới. Theo thống kê thì số người khai hoang, chinh phục đồng bằng ở vùng đất trũng bốn huyện Hà Nội đã làm nên một làn sóng tụ cư mới, sinh con đẻ cái và một cuộc “nổ bùng dân số” bắt đầu. Họ đã đúc nên một số trống đồng đẹp như trống Hoàng Hạ. Có thể chiếc trống này được sử dụng trong ngày hội, rồi lại là đồ tùy táng chôn theo người chết mà ngày nay thân xác chẳng còn, chỉ còn lại trống đồng mà thôi.

Trống Hoàng Hạ trong lòng đất Phú Xuyên, vì thế như một chứng tích của cư dân văn hóa Đông Sơn chinh phục vùng đất trũng, còn ngập mặn. Đó cũng là bằng chứng của sự gian lao vô bờ bến và công sức khai hoang mảnh đất phía nam Hà Nội khi đó. Biết bao mồ hôi của người xưa đã đổ ra để cải tạo mảnh đất Phú Xuyên thành những cánh đồng nặng trĩu hạt lúa như ngày nay.

Cái quá trình chinh phục đồng bằng của người Việt cổ còn tiếp tục diễn ra sau cái thời của trống đồng Hoàng Hạ hàng nghìn năm nữa, cho đến tận ngày nay, nếu như chúng ta biết được cái vùng Phú Xuyên bây giờ cũng vẫn còn là vùng trũng của Hà Nội, vẫn cùng với những vùng trũng của Hà Nam, nơi phát hiện trống Ngọc Lũ trước đây, là những vùng đất làm nông còn vất vả vì “chiêm khê, mùa thối” vốn còn dư âm vùng trũng của một vịnh biển cách đây vài ngàn năm.

Thế mới biết, người Việt ở vùng Phú Xuyên ngày xưa đã tốn bao công sức để cải tạo đồng ruộng, trồng lúa để mưu sinh mà lại còn sáng tạo ra được những chiếc trống đồng tuyệt tác như Hoàng Hạ nữa. Và, sự phát hiện trống Hoàng Hạ đã góp cho di sản văn hóa Việt Nam một bảo vật Quốc gia, lại còn giúp cho hậu thế biết được công ơn của những người Hà Nội xưa đi khai hoang lập ấp ra sao nữa.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Rồng bay – Nghệ thuật cung đình Việt Nam

Rồng là một linh vật huyền thoại do con người tưởng tượng ra, là sản phẩm sáng tạo của nghệ thuật, xuất hiện từ lâu đời trong cả văn hóa phương Đông lẫn phương Tây. Tại mỗi nước, mỗi khu vực khác nhau, đặc điểm cấu trúc và ý nghĩa biểu tượng của chúng cũng khác nhau. Song, nhìn chung chúng là tập hợp những yếu tố quý và mạnh lấy từ những con vật có thật. Bởi vậy, theo quan niệm xưa, rồng là hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc được gán ghép với những khả năng và quyền lực phi phàm chi phối nhân sinh, vũ trụ.

Ở Việt Nam, hình tượng Rồng đã xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước và trở thành biểu tượng linh thiêng gắn với Tổ Tiên, cội nguồn dân tộc thông qua truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”. Mặt khác, do nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước, Rồng Việt Nam còn giữ vai trò là một Phúc thần mang đến mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Do đó, hình tượng Rồng tuy không có thực nhưng rất gần gũi, gắn bó với người Việt.

Trong buổi đầu hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, cộng đồng cư dân Việt cổ – chủ nhân sáng tạo nên Văn hóa Đông Sơn, nền văn minh cổ rực rỡ đầu tiên ở Việt Nam – đã định cư và liên kết vững chắc thành cộng đồng quốc gia – dân tộc. Lúc này, ý thức dân tộc đã nảy sinh và định hình, cư dân Lạc Việt đã bắt đầu xây dựng huyền thoại về nguồn gốc dân tộc, tín ngưỡng sùng bái vật tổ. Họ đã chọn cá sấu, con vật dũng mãnh sống dưới nước làm vật tổ. Nhưng đó không hoàn toàn là cá sấu trong thực tế mà đã được cách điệu thành giao long với chiếc đầu nhọn, thân thon dài, đuôi uốn cong, có hai hoặc bốn chân, đôi khi xuất hiện sừng hoặc bờm trên đầu. Hình ảnh những cặp giao long châu đầu, dựa lưng, áp mình vào nhau xuất hiện nhiều trên đồ đồng Đông Sơn đã trở thành biểu tượng sức mạnh của người Việt cổ. Tuy nhiên, sang những thế kỷ đầu công nguyên, trong bối cảnh giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Bắc, hình thức rồng sơ khai, bản địa của người Việt đã chuyển đổi từ thân bò sát sang thân thú, đồng thời cũng mang thêm nhiều yếu tố tưởng tượng hơn.


Rìu đồng trang trí hình giao long Văn hóa Đông Sơn, khoảng 2500 – 2000 năm cách ngày nay.

Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư hẻo lánh ra Đại La, điểm trung tâm của đất nước, rồi mượn hình tượng rồng bay để đặt tên cho kinh đô mới Thăng Long, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc. Theo xu hướng thời đại đó, hình tượng rồng đã được xây dựng hoàn chỉnh ngay từ đầu và trở thành biểu tượng của vương quyền. Nó hiện lên đầy sáng tạo, độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Dù trên bất cứ di tích, chất liệu nào, cấu trúc và phong cách rồng thời Lý đều tương đối thống nhất với đặc trưng nổi bật là trên đầu có mào lửa, thân mình trơn nhẵn, tròn trặn, thon nhỏ như thân rắn, uốn nhiều khúc hình sin mềm mại, nhẹ nhàng theo kiểu thắt miệng túi. Các chi tiết bờm, râu, lông khuỷu chân luôn theo một nhịp điệu tương đồng với thân rồng… Tất cả tạo nên một phong cách hoàn chỉnh quy phạm nhưng cũng đầy trau chuốt, tinh tế và thanh thoát. Điểm khác biệt có thể nhận ra đó là chiều hướng vận động của rồng: bay theo phương nằm ngang, thẳng đứng, trong ô hình chữ nhật, hình tròn hoặc hình lá đề, lá sen…

Lá đề chạm hình rồng Đá, thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Chùa Phật Tích, Bắc Ninh.

Mảnh tháp chạm nổi hình rồng Gốm men trắng, thời Lý, thế kỷ 11 – 13.

Sang thời Trần (thế kỷ 13 – 14), do sự chuyển giao triều đại diễn ra trong hòa bình nên về cơ bản hình thức rồng thời kỳ này là sự phát triển trên cơ sở kế thừa phong cách rồng thời Lý. Tuy nhiên, tinh thần thượng võ hình thành nên qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã dần tạo một khí thế, phong cách mới cho con rồng nhà Trần. Nó trở nên khỏe khắn, mập mạp hơn, số lượng khúc uốn cũng ít đi. Đồng thời, một số chi tiết mới bắt đầu xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến như cặp sừng hoặc vây lưng hình răng cưa. Tổng quan cho thấy, rồng thời Trần đã giảm đi sự trau chuốt, hướng tới sự phóng khoáng, đơn giản nhưng khỏe khoắn.

Bộ cánh cửa chạm hình rồng Gỗ, thời Trần, thế kỷ 13 – 14. Chùa Phổ Minh, Nam Định.

Tới thời Lê sơ (thế kỷ 15) – thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam, Nho giáo phát triển tới đỉnh cao. Triều đình đã có những quy định chặt chẽ về điển lễ vương triều, rồng trở thành biểu tượng của đấng thiên tử. Những thứ có vẽ rồng 5 móng chỉ dành riêng cho nhà vua. Bởi vậy, hình tượng rồng trong nghệ thuật thời kỳ này gần như biến đổi hẳn. Những yếu tố truyền thống đã dần mất đi và thay vào đó là mẫu hình rồng thể hiện sự tiếp thu từ con rồng phương Bắc với những quy định cụ thể như mắt quỷ, mũi sư tử, thân rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng, vây lưng hình răng cưa sắc nhọn… Do đó, hình thức rồng trở nên uy nghi, oai vệ và dữ tợn hơn. Đặc điểm cấu trúc và xu hướng vận động của rồng cũng rất đa dạng. Nhà Mạc tuy chỉ tồn tại mấy chục năm trong thế kỷ 16, nhưng cũng đã kịp định hình một phong cách nghệ thuật riêng mà dấu ấn nổi bật là khúc thân uốn hình yên ngựa. Nói chung, rồng thời Mạc đã bớt đi vẻ uy nghi so với rồng Lê sơ. Sang thời Lê Trung Hưng, khúc thân uốn yên lưng ngựa này đã dần bị loại bỏ. Đặc biệt, từ thế kỷ 17, khi văn hóa dân gian phát triển mạnh, hình tượng rồng cũng đã kịp thời thích ứng. Bên cạnh những hình rồng uy nghi trong nghệ thuật cung đình, đã xuất hiện ngày càng phổ biến những mô típ rồng mang đậm tâm thức dân gian, thể hiện sự vui tươi, phóng túng, đặc biệt là trong điêu khắc gỗ đình làng. Mảng chạm hình rồng bị chó đuổi ở chùa Cói (Vĩnh Phúc) hay hình rồng nô đùa với thú ở đình Thổ Hà (Bắc Giang)… là những minh chứng rõ nét.


Thềm rồng Điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long. Đá, Thời Lê sơ, thế kỷ 15.

Chân đèn đắp nổi hình rồng Gốm hoa lam, thời Mạc, năm 1580.

Đỉnh trang trí hình rồng Gốm men rạn, thời Lê Trung hưng, năm 1736. Lò gốm Bát Tràng.

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Thời kỳ này, rồng được coi là linh vật đứng đầu trong bộ tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng. Đặc điểm nhận dạng của rồng thời Nguyễn là có đuôi xoáy tròn hoặc xòe rẻ quạt. Trong nghệ thuật cung đình, rồng đã trở lại vẻ uy nghi, biểu trưng cho sức mạnh vương quyền. Đặc điểm hình thức của rồng cũng được quy định riêng cho vua, hoàng tộc hoặc từng phẩm hàm quan lại khác nhau…, trong đó dành cho vua luôn là rồng 5 móng. Bên cạnh đó, rồng trong nghệ thuật dân gian vẫn tiếp mạch phát triển từ thời kỳ trước. Bởi vậy có thể nói, hình tượng rồng thời Nguyễn hiện lên vô cùng đa dạng như rồng bay trong mây, rồng ngậm chữ Thọ, rồng chầu mặt trời… Đặc biệt, hình tượng rồng cách điệu từ cỏ cây, hoa lá như trúc hóa rồng, lá hóa rồng, mai hóa rồng… cũng xuất hiện phổ biến và ngày càng trở nên gần gũi.


Chậu trang trí rồng Vàng, hiện vật cung đình Triều Nguyễn.

Như vậy, trải qua quá trình phát triển mấy ngàn năm, hình tượng rồng trong nghệ thuật Việt Nam đã nhiều lần biến chuyển, mỗi giai đoạn lịch sử lại mang những đặc điểm, phong cách nghệ thuật khác nhau, nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố kế thừa, bảo lưu truyền thống rõ nét. Đồng thời, có những giai đoạn, hình tượng rồng Việt Nam cũng mang những nét thể hiện sự giao lưu, tiếp biến từ văn hóa bên ngoài. Nhưng việc tiếp thu này không phải là sự sao chép từ nguyên bản mà là sự chọn lọc những tinh hoa và cải biến nó cho phù hợp với thẩm mỹ dân tộc, từ đó hình thành những đặc trưng riêng mang đậm bản sắc Việt Nam.

Nhân năm Việt Nam tại Pháp 2014, Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam và Bảo tàng quốc gia Nghệ thuật Châu Á Guimet đã phối hợp tổ chức trưng bày đặc biệt: Rồng bay – Nghệ thuật cung đình Việt Nam. Lần đầu tiên, những tác phẩm nghệ thuật cung đình độc đáo mang hình tượng rồng, ý niệm về nguồn cội của dân tộc Việt Nam, chứa đựng những tinh hoa nghệ thuật truyền thống và giá trị lịch sử đặc sắc được giới thiệu tới công chúng Pháp và bạn bè thế giới. Trưng bày mở cửa từ ngày 08/7/2014 đến ngày 15/9/2014 tại Bảo tàng Nghệ thuật quốc gia Châu Á Guimet, Paris (Pháp).

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia