Tag Archive | Văn hóa Phùng Nguyên

Xóm Rền – di tích đặc biệt quý hiếm về văn hóa Phùng Nguyên

Di tích khảo cổ Xóm Rền thuộc địa phận xóm Rền – nằm cách thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh và quốc lộ số 2 khoảng 4km về phía tây. Khu di tích này gần phủ kín gò Đồng Rền, có diện tích trên 30.000m2 .

Trong 40 năm kể từ khi được phát hiện đến nay, các nhà khảo cổ đã khai quật xóm Rền 6 lần trên tổng diện tích gần 500m2. Quá trình khai quật và nghiên cứu di tích này gắn liền với quá trình khai quật và nghiên cứu văn hóa Phùng Nguyên.

Continue reading

NGÔI NHÀ 4000 CỔ VẬT – Vĩnh Phúc

Nhận thức trước các giá trị văn hoá làng quê đang ngày dần mai một; từ những năm 90 của thế kỷ XX, anh nông dân Nguyễn Văn Trường ở xã Chấn Hưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã ấp ủ, cóp nhặt, sưu tầm các đồ gốm, sứ cổ trong xóm ngoài làng với một ý nghĩ “gìn giữ văn hoá cho làng”.

(Anh Nguyễn Văn Trường và ngôi nhà cổ vật)

Continue reading

Văn hóa Gò Mun!

Văn hoá Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun- xã Tứ Xã- huyện Lâm Thao- tỉnh Phú Thọ.

Văn hoá Gò Mun có niên đại cách ngày nay 2500-3000 năm, là nền văn hóa hậu kỳ thời đại đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Phân bố ở miền Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng với địa bàn phân bố của văn hoá Đồng Đậuvăn hóa Phùng Nguyên. Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm…thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội. Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích văn hoá Gò Mun như các di chỉ: Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới… phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng….

Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng, các di tích và di vật… đều phản ánh một cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng. Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng văn hoá Gò Mun chỉ như một “bản lề”, một “khâu chuyển tiếp” hay một điểm “giao thời”, “đệm” cho văn hoá Phùng Nguyên – Đông Sơn.

Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun:

Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật vào các năm 1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học đã thu được hàng vạn hiện vật bao gồm: đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau.

Hiện vật đá: qua 4 lần khai quật đã thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh…;

Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu…; hiện vật gốm thời kì này có dọi se sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc…

Hiện vật văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu như:

hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật; được làm từ chất liệu đồng, gốm, đá…Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu. Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học đã tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu… qua đó cho chúng ta biết được người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn. Giai đoạn Gò Mun lần đầu tiên xuất hiện mũi tên được làm bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng.

Thông quá đó cũng cho chúng ta thấy sự khéo léo của cư dân người Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và cũng là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong văn hóa Gò Mun:

Hơn thế nữa ở giai đoạn này còn ghi nhận sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau so với các giai đoạn trước. Đồ đồng trong văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau.  Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác. Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của văn hóa Đông Sơn.

Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như: rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc… và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi.

Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra. Điều đó đã được minh chứng bằng sự có mặt của những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại.

Tượng đồng thuộc Văn hóa Gò Mun

Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt văn hóa Gò Mun và văn hóa Đồng Đậu:

Trong giai đoạn văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng đã bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng được xác định rõ ràng. Chính việc ổn định kiểu dáng đã dẫn đến việc sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu. Song dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt tới trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là về nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn.

Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun: rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa… đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán. Đây là những c«ng côcơ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun thời bấy giờ.

Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nghề trồng lúa nước. Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước.

Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo ra đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng.

Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận sự phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun:

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun đã dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình. Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế.

Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu là văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm. Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ. Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản.

Nếu như gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn  thì đến giai đoạn này, gốm được nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxít silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế mà gốm có độ cứng hơn, có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời kì trước.

Mảnh gốm – Văn hóa Gò Mun

Loại hình gốm trong văn hóa Gò Mun rất phong phú:

Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng như: nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.Qua đó  phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc được họa bức tranh toàn cảnh về sự tụ cư thời đó. Đó là sự quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình,  …, là sự hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính…và sau này trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam.

Như vậy có thể thấy rằng: giai đoạn này xã hội người Việt đã có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt. Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm của mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá. Chính vì có bước tiến bộ trong kĩ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người dân Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt.

Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

Hiện nay tại bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như: rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm… tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kì có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc. Đó cũng chính thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu  cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/hien-vat-dac-sac/401-van-hoa-go-mun

Văn hóa Phùng Nguyên

Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm.

Phùng Nguyên là tên một làng ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng.

Di chỉ khảo cổ Văn hóa Phùng Nguyên

Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Ở những nơi đây, trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa Phùng Nguyên, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí.

Nồi gốm Phùng Nguyên

Các văn hóa cùng thời kỳ với văn hóa Phùng Nguyên:

Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn có văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam bộ).

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_Ph%C3%B9ng_Nguy%C3%AAn

Về kỹ thuật chế tác công cụ trong văn hóa Phùng Nguyên

Chiếm tỉ lệ chủ yếu trong công cụ sản xuất của cư dân văn hoá Phùng Nguyên vẫn là đồ đá. Tuy nhiên, kĩ thuật chế tác đá của cư dân Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao mà ở giai đoạn trước hay sau đó đều không vượt qua. Hầu hết các loại công cụ và đồ trang sức bằng đá của người Phùng Nguyên đều được mài nhẵn, có kích thước nhỏ nhắn, tinh tế, được chế tác từ các loại đá quí hiếm, có độ rắn cao, màu sắc đẹp. Nếu ở giai đoạn hậu kì đá mới, con người mới biết đến các loại hình kĩ thuật như ghè, đẽo, cưa, khoan, tiện đá… thì đến văn hoá Phùng Nguyên, những kĩ thuật này đã trở nên phổ biến thành thục đến độ tinh vi. Các thao tác kĩ thuật như tiện đá, khoan lỗ và khoan tách lõi đã giúp người Phùng Nguyên tạo ra các loại hình công cụ có hình dáng chính xác và tiết kiệm được nguyên liệu.

Chiếm đa số trong các loại hình công cụ đá Phùng Nguyên là các loại rìu bôn có thiết diện hình tứ giác. Người ta đã tìm thấy số lượng lớn các bôn đá hình tứ giác có lưỡi vát lệch một bên ở các di chỉ Phùng Nguyên. Ngay tại một di chỉ như Gò Bông (Phú Thọ), các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 44 chiếc bôn đá. Phần lớn trong số bôn đá tìm được có kích thước nhỏ, mỏng, dài trung bình từ 1,8 – 2,5cm, rộng 1,5 – 2cm, dày 0,1 – 0,5cm, lưỡi tạo góc 30 – 40 độ, nhiều chiếc dài bằng chiều rộng [1].

Bện cạnh là các loại rìu đá hình tứ giác có kích thước nhỏ, góc lưỡi sắc. Đặc biệt, người ta cũng bắt gặp trong các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên loại rìu đá được chế tác bằng ngọc Nephrit có màu trắng đục, trắng vân hồng hay vân xanh. Loại rìu này kích thước rất nhỏ (dài trung bình 3cm, rộng gần 2cm, dày 0,5cm), có loại còn bé hơn, giống như đồ trang sức của con người. Đó là sản phẩm của đôi bàn tay chế tác đá tài hoa của người Phùng Nguyên bấy giờ.

Ngoài bôn và rìu đá, trong các di chỉ Phùng Nguyên còn tìm thấy nhiều loại hình công cụ khác, như đục đá, cuốc đá, dao đá, liềm đá, cưa đá, mũi khoan đá, mũi lao, mũi giáo, mũi tên đá 2 – 3 cạnh… Những hiện vật này đều được làm ra trong một số công xưởng chế tác đá ở Tràng Kênh, Bãi Tự, Gò Chè,…

Trong một số di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên, người ta còn tìm được những cục đồng nhỏ, gỉ đồng và xỉ đồng. Tại di chỉ Gò Bông, bên cạnh những cục đồng còn tìm thấy xỉ đồng và gỉ đồng ở độ sâu 1,3m. Ở một số địa điểm khác như gò Đồng Xâu, Lũng Hoà, chùa Gio cũng tìm thấy gỉ đồng và mảnh khuôn đúc đồng bằng đất nung. Bằng phương pháp phân tích quang phổ những cục đồng tìm thấy được ở Gò Bông, người ta cho rằng đây là hợp kim đồng thau (gồm đồng, thiếc và một số vết bạc) chứ không phải là dạng đồng đỏ ban đầu.

Việc phát hiện xỉ đồng, gỉ đồng, khuôn đúc đồng bằng đất nung là bằng chứng cho phép chúng ta xác định về sự ra đời của nghề luyện kim đồng thau ở Việt Nam trong giai đoạn phôi thai.

Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa tìm thấy được những đồ đồng nguyên vẹn trong các di chỉ Phùng Nguyên. Việc không có những hiện vật bằng đồng được định hình cho thấy đồ đồng thời bấy giờ còn chiếm tỉ lệ rất ít. Không thể phủ nhận rằng, mặc dù chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên đã bước vào thời đại kim khí nhưng đồ đồng vẫn chưa lấn át được công cụ bằng đá. Đồ đá vẫn chiếm tỉ lệ chủ yếu (92%) và là công cụ chủ đạo trong đời sống sản xuất – kinh tế của người Phùng Nguyên [2].

Nguồn: bachkhoatrithuc.vn

Lý giải bí ẩn các cổ vật trong túi Khót của ông Mo Mường – Hòa Bình

Mo Mường là một loại hình văn hóa phi vật thể của người Việt cổ, có cơ sở vững chắc về mặt khoa học bởi nó được chứng minh thông qua túi Khót của các ông thầy Mo.

Thời tiền sử người Việt cổ tại Hòa Bình đã có những quan niệm về nhân sinh quan vũ trụ được biểu hiện trong các sử thi Mo Mường. Họ quan niệm trời sinh ra trước, đất sinh ra sau. Quan niệm này rất giống với quan niệm của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia nói tiếng Slavơ ở châu Âu, nước Ai Cập cổ đại hay người Inca ở châu Mỹ… Đây là một quan niệm rất khoa học mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu khoa học đã phải thừa nhận nó.

Trong cuộc đấu tranh sinh tồn của người Việt cổ nói riêng và loài người nói chung, con người đã biết tạo ra các công cụ lao động sản xuất, vũ khí bằng những nguyên vật liệu và kỹ thuật thô sơ, mà trong đó có những tạo hình vẫn được kế thừa cho đến tận ngày nay.

Trong những năm vừa qua đã có rất nhiều các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh, những người tâm huyết với di sản văn hóa Mo Mường – Hòa Bình, đã bỏ rất nhiều tiền của, thời gian, công sức để ghi chép lại các áng Mo, sử thi về Mo. Tổ chức rất nhiều các lễ hội và chuyển thể một số áng Mo thành các ca khúc với ca từ gần gũi với đời sống thường ngày của người dân… Tất cả vấn đề trên đều toát lên chủ đề xuyên suốt về giáo dục con người tiến bộ mà cho đến ngày nay vẫn chưa hề lạc hậu. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Mo Mường – Hòa Bình rất quan trọng và khẩn cấp, nó có vai trò không chỉ đối với nhân dân Hòa Bình mà còn cả dân tộc Việt chúng ta ngày nay.

Một điều rất quan trọng ở đây đó là vì có quan niệm nhân sinh quan nên trong túi Khót của các ông Mo Mường luôn luôn có các viên sa thạch (testit màu đen hình bánh dầy) và các viên đá bán quý có độ cứng từ 6 – 8 mohs được tìm kiếm và khai quật trong lòng đất. Ngoài ra còn có rất nhiều các vật chứng lịch sử liên quan đến các nghi lễ truyền thống của người Mường, được làm bằng các chất liệu đá, đồng, nhuyễn thể… Những vật chứng này được giữ gìn qua nhiều thế hệ, sử dụng làm đồ tế khí để tạo thêm sức mạnh huyền bí, phục vụ công tác giáo dục cộng đồng về quá trình đấu tranh sinh tồn của loài người.

Qua đây tôi xin phân tích về túi Khót của các ông Mo như sau:

Hiện vật trong túi Khót của các ông Mo Mường. Nguồn: Internet

Trải qua nhiều thế hệ, túi Khót của các ông Mo luôn được giữ gìn như một báu vật mà không phải ai cũng được xem và sờ vào. Trong túi Khót đó lưu giữ những vật chứng lịch sử vô cùng quý giá và khác biệt với các vật chứng lịch sử do các nhà khảo cổ học khai quật được vì lý do sau đây:

Thứ nhất, viên thiên thạch theo quan niệm của người Mường là ông trời rơi xuống tạo ra Trái đất và viên đá bán quý là vật chứng lịch sử quý nằm trong lòng  đất. Hai vật chứng này thể hiện cho quan niệm về thiên địa nhân hợp nhất của người Mường, họ đã biết sử dụng những vật quý ở trên trời và dưới đất cùng các công cụ lao sản xuất để thu phục thú dữ, chinh phục thiên nhiên tạo ra sức mạnh nhằm giáo dục cộng đồng sống đoàn kết, đấu tranh chống thiên nhiên, tăng cường sức sống trước sự khắc nghiệt của thời tiết ở các giai đoạn tiền sử và sơ sử.

Thứ hai, bên cạnh các viên sa thạch và đá bán quý, trong túi Khót của các ông Mo còn có rìu đá, vòng tay đá có niên đại hàng chục nghìn năm trong văn hóa Phùng Nguyên; rìu xéo và mũi giáo đồng cách ngày nay hàng nghìn năm trong văn hóa Đông Sơn cùng các vật chứng bằng nhuyễn thể như xương, sừng, nanh vuốt của các loài thú dữ. Tất cả các vật chứng lịch này được lưu giữ lại thể hiện quan niệm con người…

Qua các vật chứng lịch sử này, chúng ta có thể thấy được sức mạnh của túi Khót khi các thầy Mo làm lễ mang đến sức thuyết phục cao đối với cộng đồng và hướng cộng đồng tới những áng Mo mang tính giáo dục và nhân văn sâu sắc.

Gốm: Tóm tắt nhanh qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam

Lịch sử gốm Việt Nam trải qua một bề dày thời gian từ văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn cách ngày nay khoảng 10.000 năm. Nối tiếp là gốm Phùng Nguyên với các họa tiết hoa văn hình chữ S. Đây là tiền đề cho trang trí hoa văn trên đồ đồng trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Khi nước ta bị phong kiến phương Bắc xâm lược 10 thế kỷ thì gốm bị kìm hãm phát triển. Đến giai đoạn độc lập, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê (Lê sơ), Mạc, Tây Sơn, Nguyễn gốm nước ta lại bùng lên phát triển và nổi tiếng trên thế giới.

Gốm thời tiền sử

Tìm thấy trong văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn (15.000 – 10.000 năm cách ngày nay). Được nặn bằng tay, miệng loe, thân thẳng hoặc phình, trang trí hoa văn khắc vạch.

Gốm thời sơ sử

Trong văn hóa Phùng Nguyên gốm được làm bằng bàn xoay, tạo các hình đơn giản như hũ, vò, chum. Có hoa văn trang trí rất phong phú, đa dạng như văn chải mịn, khắc vạch song song, chấm dải, uốn lượn hình sóng nước, có dấu vết đan lát. Tạo dáng gốm Phùng Nguyên thường có miệng loe, thân phình, đáy tròn, có văn thừng trên miệng, chân đế cao.

Sang văn hóa Đông Sơn gốm có các tạo hình kế tiếp từ thời Phùng Nguyên, miệng loe, thân phình; trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn hình chữ S là chủ yếu.

Gốm thời kỳ Bắc thuộc

Hiện vật tiêu biểu là các vò, hũ nhỏ, có một lớp men mỏng nhưng không phủ hết. Màu men vàng nhạt hoặc xám nhạt. Hoa văn trang trí vẫn phảng phất nối tiếp trang trí từ văn hóa Đông Sơn như chữ S, hình thoi, vòng tròn tiếp tuyến, răng lược, chấm dải, văn chải dọc, văn thừng.

Gốm Việt Nam thời độc lập

Thời Đinh – Tiền Lê:

Chủ yếu là vật liệu xây dựng và trang trí kiến trúc, gạch trang trí hoa sen, hoa phượng. Xương gốm nặng, trong lòng bát đĩa thường có dấu chân kê lớn hình chữ thập.

Thời Lý – Trần:

Hiện vật đa dạng, phong phú về cả chủng loại và màu men. Bốn dòng men tiêu biểu là men trắng, men xanh lục, men nâu và men trắng vẽ hoa nâu. Hoa văn trang trí chủ đạo là sen và cúc.

Thời Lê sơ:

Nổi tiếng với dòng hoa lam, được vẽ bằng ôxit cô ban. Nét vẽ phóng khoáng theo cảm xúc, tạo ra độ đậm nhạt, dày mỏng, màu men sinh động, mềm mại. Hoa văn trang trí: Vẫn là hoa cúc, hoa sen, sóng nước, chim, cá.

Thời Mạc:

Nổi tiếng với dòng men nhiều màu, tam thái, ngũ thái. Hoa văn trang trí gồm hoa cúc, hoa sen, hoa phù dung, cúc dây, khóm cỏ, rong rêu, lá đề, sóng nước, vảy cá, phượng, ngựa, chim, vẹt, sư tử. Hai loại hình hiện vật tiêu biểu được biết đến là chân đèn và lư hương.

Thời Lê – Trịnh:

Với các làng gốm nổi danh như Thổ Hà, Bát Tràng, Hương Canh, Phù Lãng, Hiếu Lễ. Hiện vật phong phú đa dạng gồm chậu lớn, đỉnh, mô hình nhà tháp men nhiều màu, lư hương hình bông sen. Hoa văn trang trí gồm hoa sen, cúc, phù dung, các loại chim, sen vịt, sen trúc, sóng nước kết hợp với mây tản.

Thời Nguyễn:

Có đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, gốm trang trí kiến trúc, xây dựng lăng tẩm. Men rạn trắng ngà và men trắng hoa lam thời kỳ này vẫn phát triển. Bên cạnh đó có thêm men đá, trắng đục (gốm Cậy), men xanh xám, da lươn, đỏ sậm (Phù Lãng). Hoa văn trang trí chủ yếu là tứ quý.