Archives

Đồ gốm Bắc thuộc

Nghề sản xuất gốm thời Bắc thuộc tiếp tục phát triển trên cơ sở kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng gốm Trung Hoa.


Gạch xây mộ khai quật tại thôn Vũ Xá, xã Ái Quốc, huyện Nam Sách năm 1996



Bình gốm Bắc thuộc hình Con Tiện (TK 1-3) sưu tầm tại Kinh Môn năm 2011

Ngoài đồ đất nung mang nhiều dấu ấn Đông Sơn còn có các đồ gốm phủ men. Những đồ gốm hiện còn trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân thuộc giai đoạn này thường có nguồn gốc từ các ngôi mộ gạch xếp, mộ thuyền, mộ cũi. Niên đại các mộ khoảng thời kỳ Đông Hán, TK 1-3, Lục triều – Đường, TK 6 -7 hoặc cuối Đường, TK 9-10. Các ngôi mộ gạch xếp thường được xây dựng bằng loại gạch hình chữ nhật và hình múi bưởi, hoa văn in nổi trên rìa một cạnh: hình ô trám lồng, hình thoi, hình chữ S …Dấu tích của loại mộ gạch xếp mang phong cách Hán nên thường gọi là mộ Hán.

Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, nơi đây còn lưu  giữ nhiều di chỉ mộ Hán. Trong những năm qua Bảo tàng Hải Dương đã tiến hành khai quật các ngôi mộ Hán như: Ngọc Lặc, Toại An, Minh Đức (Tứ Kỳ) đống Dom, đống Cà, Kim Chi (TP hải Dương), An Sinh (Kinh Môn)… thu về nhiều hiện vật gốm thời Hán có giá trị.

Loại hình đồ gốm Bắc thuộc có men chủ yếu: ấm, âu, bát, đĩa, bình, âu, lọ, chén 2 tai (nhĩ bôi) … Đồ đất nung có: mô hình nhà, mô hình bếp, gạch xây mộ.

Đặc điểm chính của đồ gốm Bắc thuộc: không có đồ gốm loại kích  thước lớn, xương gốm dày, men mỏng thường không phủ trùm hết, màu men vàng ngà, xanh nhạt hay xám. Loại hình vò, hũ gốm thời Hán thường in nổi văn ô trám lồng, hình thoi, chữ S… Một số ấm có trang trí hình đầu gà, đĩa có hoa văn vòng tròn tiếp tuyến giống như trên trống đồng Đông Sơn. Nhiều loại hình đồ gốm tạo dáng tương tự đồ đồng cùng thời như ấm đầu gà, chén 2 tai, bình con tiện, bình có quai, bát chân cao… Đặc biệt là đồ gốm có minh văn trên gạch xây mộ đống Dom, đầu ngói ống có chữ Cúc Bồ đã được bổ sung cho sưu tập gốm Hán phong phú và đa dạng.

Nguyễn Thị Liên

Nguồn: http://sovhttdl.haiduong.gov.vn/baotanggom/Pages/chitiettin.aspx?newsId=4c93819d-5a6a-483d-b569-19f4116280bb

Bắc thuộc và chống Bắc thuộc: Những dấu tích văn hóa vật chất

BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC: NHỮNG DẤU TÍCH VĂN HÓA VẬT CHẤT

 Nguyễn Quang Ngọc

                          ( Bài tham luận tại Hội thảo Khảo cổ học Đức -Việt  ngày  1-2/3/2012 )

  1. KHÁI QUÁT 10 THẾ KỶ BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC

Năm 179 TCN, thành Cổ Loa thất thủ trước cuộc tiến công xâm lược của Triệu Đà, Âu Lạc bước vào đêm trường Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm.

Triệu Đà chia Âu Lạc ra làm hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân và sát nhập vào nước Nam Việt. Quận Giao Chỉ tương đương với khu vực Bắc Bộ và quận Cửu Chân tương đương với các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại đây, chính quyền Nam Việt cắt đặt 2 viên sứ thần coi giữ và trong thực tế mới chỉ cai trị một cách lỏng lẻo thông qua hình thức thu nộp cống vật.

Năm 111 TCN, Nam Việt bị Tây Hán thôn tính. Trên lãnh thổ Nam Việt cũ, Tây Hán chia ra làm 9 quận là Đam Nhĩ, Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (đều thuộc các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (tương đương với vùng từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Đến năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận lục địa (trừ Châu Nhai và Đam Nhĩ) và đặt Châu trị tại quận Giao Chỉ. Bộ máy cai trị của nhà Tây Hán tại Giao Chỉ được thiết lập chặt chẽ hơn so với nhà Triệu. Thứ sử đứng đầu châu và đóng trị sở tại Mê Linh (Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội), dưới cấp quận có Thái thú coi quản việc dân sự và Đô uý coi việc quân sự. Bên dưới cấp huyện, Tây Hán vẫn tiếp tục cho Lạc tướng được trị dân theo chế độ cha truyền con nối.

Từ thế kỷ II TCN cho đến đầu Công nguyên, dưới chính sách cai trị lỏng lẻo của nhà Triệu và nhà Hán, cơ cấu tổ chức truyền thống của Âu Lạc mặc dù chịu sự kiềm chế, kiểm soát của chính quyền đô hộ, song về cơ bản không bị xáo trộn nhiều. Nền văn minh Việt cổ dựa trên mô hình kinh tế văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Đây là nền tảng quan trọng, là sức sống nội tại để người Việt vượt qua những thử thách của các chính sách nô dịch và đồng hoá ngày càng có quy mô, hệ thống của các chính quyền đô hộ trong những giai đoạn sau.

Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ. Về tổ chức bộ máy đô hộ, nhà Đông Hán vẫn đặt chức Thứ sử đứng đầu châu Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Dưới cấp quận, viên quan đứng đầu vẫn là Thái thú. Tuy nhiên, lúc này Thái thú kiêm coi cả việc dân sự và việc quân sự của một quận. Chức Đô uý chuyên trách việc quân sự trước đây không còn nữa. Ngoài ra, để giúp việc cho Thái thú, một số chức quan chuyên trách các phần việc cụ thể cũng được đặt ra.

Đặc biệt, chính quyền Đông Hán là chính quyền đô hộ đầu tiên đã cố sức vươn xuống cai quản cấp huyện. Danh hiệu Lạc tướng bị xoá bỏ, thay vào đó, mỗi huyện do một viên Lệnh trưởng được chính quyền Đông Hán bổ nhiệm trực tiếp cai quản. Để thuận lợi hơn cho Lệnh trưởng cai trị các huyện đồng thời triệt tiêu dần quyền lực của các Lạc tướng cũ của người Việt trên đất bản bộ của mình, nhà Đông Hán đã tiến hành điều chỉnh lại địa giới hành chính, chia tách và đặt thêm một số huyện mới. Mã Viện sau khi đánh bại Trưng Vương đã quyết định chia cắt huyện Tây Vu cũ thành 3 huyện mới là Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải và cắt bớt diện tích huyện Mê Linh…

Ách cai trị thắt chặt của nhà Đông Hán còn thể hiện rõ qua việc tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh việc vơ vét tài nguyên, của ngon vật lạ để cống nạp về triều đình trung ương, các quan lại tại Giao Châu còn ra sức bóc lột người dân bằng nhiều loại tô thuế và lao dịch. Nhiều diện tích đất đai của công xã người Việt ở Giao Chỉ đã bị các nhóm địa chủ, quan lại, sĩ phu từ phương Bắc di cư xuống chiếm đoạt để lập trang trại, đồn điền. Chính quyền cai trị nắm độc quyền nhiều ngành sản xuất như rèn sắt, mua bán muối… Nhà Đông Hán cũng ra sức áp dụng luật Hán trên đất Việt, bắt nhân dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cố gắng xóa bỏ tận gốc truyền thống “dùng tục cũ mà cai trị” của người Việt.

Cuối thế kỷ II – đầu thế kỷ III, nhà Đông Hán suy yếu rồi sụp đổ, Trung Quốc liên tục trong tình trạng hỗn chiến, loạn lạc. Nhiều triều đại được lập lên, tồn tại trong một thời gian ngắn rồi lại sụp đổ. Chịu tác động của những biến động đó, từ đầu thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, Giao Châu lần lượt phụ thuộc một cách lỏng lẻo vào các thế lực phong kiến Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần (giai đoạn nội thuộc Lục triều).

Năm 264, nhà Ngô cũng tiến hành chia cắt lại địa giới hành chính tại Giao Châu. Ba quận Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, tách hẳn khỏi Giao Châu trở thành Trung Quốc nội địa. Tại Giao Châu, nhà Ngô lại tiến hành chia đặt nhiều quận, huyện nhỏ. Quận Giao Chỉ được tách ra thành 3 quận nhỏ là Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình; quận Cửu Chân được chia thành 2 quận là Cửu Đức và Cửu Chân. Lúc này, trên địa bàn 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trước đây đã bao gồm 6 quận nhỏ và 45 huyện. Các huyện cũng được chia lại với diện tích nhỏ hơn so với quy mô huyện dưới thời Đông Hán. Các chính quyền đô hộ Lục triều về sau vẫn cơ bản giữ nguyên cách chia đặt quận, huyện như dưới triều Ngô, chỉ tiến hành điều chỉnh nhỏ tại các huyện, như bỏ hoặc đặt thêm một số huyện mới, đổi tên huyện…

Chính sách cai trị thực thi từ thời Đông Hán tiếp tục được các chính quyền đô hộ Lục triều đẩy mạnh. Sản vật quý, của ngon vật lạ từ khắp mọi miền đất nước đều bị vơ vét, thu gom về phương Bắc. Việc thu gom cống phẩm không theo quy định mà được tiến hành hết sức tùy tiện, vô hạn độ càng làm dân ta khốn khổ. Dưới thời Ngô, hàng vạn người Việt còn bị bắt bổ sung vào quân đội để tham gia vào các cuộc hỗn chiến phong kiến, hàng nghìn thợ thủ công tài hoa cũng bị bắt sang xây dựng các công trình tại Trung Quốc.

Hoạt động chiếm đất lập trang trại đồn điền của địa chủ, quan lại gốc Hán ngày càng phổ biến khiến nhiều thành viên công xã người Việt phá sản, không còn tư liệu sản xuất và trở thành nô tì, nông dân lệ thuộc của giới địa chủ quan lại. Chính sách di dân, đồng hoá cũng được đẩy mạnh thông qua biện pháp thâm độc là di dân người Hán sang ở lẫn với người Việt. Quân lính trong các đội quân chinh phạt Giao Châu, tù binh khổ sai người Hán hay đội ngũ quan lại, địa chủ vì loạn lạc đã chạy sang định cư lập nghiệp tại Giao Châu, họ ở lẫn với người Việt, góp phần đẩy mạnh thêm xu hướng Hán hoá đang gia tăng trong lòng cơ cấu kinh tế xã hội cổ truyền của người Việt.

Nhìn chung, từ cuối thời Đông Hán đến Lục triều, mặc dù các chính quyền đô hộ đã ra sức đẩy mạnh hàng loạt chính sách bóc lột, nô dịch và đồng hoá nhân dân ta, song trên thực tế các chính sách này chỉ được thực thi tại các khu vực trung tâm – trị sở cai trị hay những địa điểm đóng quân đồn trú của chính quyền đô hộ. Còn tại các miền xa xôi, các vùng nông thôn, chúng chỉ mới dừng lại ở mức độ “ràng buộc” lỏng lẻo.

Đầu thế kỷ thứ VII, Giao Châu bị nhà Tuỳ cai trị trong một thời gian ngắn và sau đó rơi vào ách thống trị của nhà Đường cho đến đầu thế kỷ thứ X. Bộ máy cai trị nhà Đường có nhiều khác biệt so với các chính quyền đô hộ trước đó. Nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để thống suất 10 châu là Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu và Long Châu – tức bao gồm toàn bộ Bắc Bộ hiện nay cho đến Đèo Ngang. Năm 622, Giao Châu đại tổng quản phủ được đổi thành Giao Châu đô hộ phủ, rồi An Nam đô hộ phủ vào năm 679. Đứng đầu An Nam đô hộ phủ là một viên Đô hộ hoặc Kinh lược sứ; đứng đầu các châu là chức quan Thứ sử.

Tiến xa hơn một bước so với các chính quyền đô hộ trước đó, nhà Đường đã tìm mọi cách thiết lập hệ thống cai trị xuống tận các xóm làng của người Việt. Giao Châu đại tổng quản đầu tiên của nhà Đường là Khâu Hoà đã tiến hành cải cách chia đặt các vùng nông thôn thành các tiểu hương, đại hương, tiểu xã, đại xã với quy định cụ thể về số hộ cho từng cấp nhằm phục vụ cho công việc tổ chức quản lý hành chính cấp cơ sở. Đối với miền núi, nhà Đường đặt các châu ki mi do tù trưởng cai quản. Tổng cộng An Nam đô hộ phủ cai quản 41 châu.

Chính quyền đô hộ nhà Đường đã thực thi tại An Nam các hình thức và thủ đoạn cai trị hà khắc, thâm độc. Nhân dân An Nam phải chịu thuế má, lao dịch rất nặng nề. Phương thức bóc lột chủ yếu của nhà Đường tại đây là bóc lột thông qua các hình thức tô thuế. Bên cạnh đó, phương thức bóc lột bằng cống nạp vẫn được duy trì. Các châu quận tại An Nam hàng năm phải tiến cống những sản vật địa phương, lâm thổ sản quý, sản phẩm thủ công… Ngoài việc bị bóc lột tô thuế, chịu lao dịch để khai thác sản vật làm cống phẩm cho triều đình, người dân An Nam còn phải đóng rất nhiều phú liễm khác… khiến tình cảnh của họ đã khốn khổ lại càng cùng quẫn hơn. Hiện tượng bần cùng hoá gia tăng nhanh chóng với quy mô ngày càng lớn. Mâu thuẫn giữa người Việt và chính quyền đô hộ ngày càng gay gắt và đã bùng lên thành nhiều phong trào đấu tranh lớn của dân chúng vào thế kỷ VIII-IX, làm cơ sở đi đến công cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập hoàn toàn vào đầu thế kỷ X.

Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, chính sách cai trị của các triều đại phong kiến và quá trình giao lưu tiếp xúc Việt – Hoa theo cả hai hình thức cưỡng bức và ôn hoà đã tạo nên những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá của người Việt.

Khu vực hạ châu thổ sông Hồng đã mở rộng vươn xa về phía biển. Người Việt đã không ngừng khai hoang lập ấp, biến hầu như toàn bộ vùng châu thổ thành đồng ruộng và xóm làng. Diện tích đất canh tác được mở rộng, hệ thống đê điều ngăn lụt đã xuất hiện tại nhiều nơi. Toàn bộ vùng châu thổ đã trở thành những cánh đồng chuyên canh trồng lúa và hoa màu. Từ đầu Công nguyên, đồ sắt đã bắt đầu được sử dụng phổ biến, cày cuốc đã trở thành phương thức canh tác chủ yếu thay cho phương thức “hoả canh”, “thủy nậu”. Kỹ thuật dùng cày và bón phân, thâm canh tăng vụ đã thúc đẩy năng suất cây trồng tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh trồng lúa nước truyền thống, người Việt đã đa dạng hoá cơ cấu cây trồng. Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển. Cây đay, bông, gai cũng được trồng phổ biến để làm nguyên liệu dệt vải. Nghề làm vườn cũng không ngừng được đẩy mạnh. Chăn nuôi cũng phát triển với nhiều giống gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà, ngỗng, vịt, chim bồ câu…

Quá trình tiếp xúc văn hoá Hoa – Việt lâu dài đã đem đến những thay đổi quan trọng trong ngành thủ công nghiệp. Bên cạnh những nghề truyền thống, người Việt đã phát triển những nghề thủ công học từ người Hán như rèn sắt, làm gốm, làm gạch ngói, làm đường, làm giấy, chế tạo thủy tinh, sản xuất đồ mỹ nghệ, thuộc da, sơn then… Trong từng nghề, người Việt tiếp thu không chỉ kỹ thuật mà cả phong cách nghệ thuật Hán. Đồ gốm làm ra trong thời kỳ này đã thấy xuất hiện nhiều loại hoa văn Hán rất đặc thù. Người Việt từ sản xuất các loại gốm thô đã tiến tới làm ra các sản phẩm gốm tráng men. Nghề làm vật liệu xây dựng đặc biệt phát triển nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kiến trúc thành quách, chùa tháp, mộ táng… của chính quyền cai trị. Nghề làm giấy học được từ Trung Quốc cũng có những tiến bộ đáng kể; nghề chế tạo thủy tinh cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng với nhiều loại sản phẩm thuỷ tinh có nhiều màu, tinh xảo.

Trong thời kỳ này, chủ yếu có hai luồng giao thương buôn bán là hàng hoá, tiền đồng từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam và nguồn nông, lâm, thổ, hải sản, sản phẩm thủ công từ Việt Nam chuyển sang Trung Quốc. Hệ thống thuyền buôn Trung Quốc hoạt động mạnh đã nối kết Việt Nam với nhiều quốc gia Đông Nam Á. Hệ thống giao thông, giao thương đã phát triển, nối liền các địa phương trong một huyện, quận và nối thông cả 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.

Về văn hoá xã hội, dưới tác động của chính sách đồng hoá, các yếu tố văn hóa Hán ngày càng ảnh hưởng sâu đậm tại nước ta. Xen kẽ và hoà cùng với các xóm làng người Việt ở châu thổ sông Hồng, lúc này cũng bắt đầu xuất hiện một số thị trấn, xóm làng của người Hoa và đồn điền, trại ấp của quan lại, địa chủ gốc Hán. Trải qua quá trình cộng sinh lâu đời, nhiều người Hoa đã dần dần Việt hoá và trở thành một bộ phận trong cộng đồng người Việt.

Với việc xoá bỏ chế độ Lạc tướng và cơ cấu bộ lạc, nhiều truyền thống của công xã, bộ lạc người Việt đã bị phá vỡ, phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc hơn với những mối quan hệ xã hội mới ra đời. Tầng lớp hào trưởng người Việt ngày càng có vai trò to lớn trong xã hội, trong khi đó họ lại bị quan lại đô hộ chèn ép và phân biệt đối xử về cả kinh tế và chính trị nên mâu thuẫn giữa họ với chính quyền đô hộ càng ngày càng trở nên sâu sắc. Họ dần trở thành thủ lĩnh đại diện cho phong trào đấu tranh chống lại ách nô dịch và đồng hoá của chính quyền đô hộ.

Văn hoá, luật tục và thiết chế cổ truyền của người Việt dần dần bị xoá bỏ và bị cải tổ theo phong hoá Hán. Thậm chí tên họ người Việt đến đây cũng đã được thống nhất đặt theo cách gọi chung của người Hán. Tuy nhiên nhiều truyền thống vẫn được bảo tồn bền bỉ như tục thờ cúng tổ tiên, anh hùng có công với cộng đồng, tục xăm mình, nhuộm răng đen hay các hình thức tín ngưỡng dân gian khác của cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ đã đưa đến sự du nhập của các luồng tư tưởng, tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo… Nho giáo vào Việt Nam cùng với chính sách nô dịch, đồng hoá của chính quyền cai trị nên ít có điều kiện đi sâu vào đời sống dân chúng, mà dường như mới chỉ dừng lại ảnh hưởng ở những tầng lớp trên trong xã hội. Trái lại, Phật giáo ngay khi mới vào Việt Nam đã có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa một cách tự nhiên. Đây là tôn giáo phát triển nhanh nhất và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại nước ta trong thời Bắc thuộc. Sự phát triển mạnh của tôn giáo này đã dẫn đến sự hình thành trung tâm Phật giáo Dâu – Luy Lâu phồn thịnh ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Một tôn giáo khác cũng theo bước chân người Hán du nhập vào nước ta là Đạo giáo. Khoảng cuối thế kỷ II, Đạo giáo đã chính thức được truyền bá và vượt xa Nho giáo về mức độ ảnh hưởng trong dân chúng. Với tinh thần xuất thế, vô vi, thoát tục, thuận theo tự nhiên, Đạo giáo đã được người Việt đón nhận nhanh chóng. Sự xuất hiện và phát triển đồng thời của nhiều tư tưởng, tôn giáo đã tạo nên sắc thái đa nguyên hỗn hợp trong đời sống văn hoá tín ngưỡng của người Việt.

Như vậy, mặc dù phải chịu đựng ách cai trị tàn bạo và chính sách đồng hoá khốc liệt của các triều đại phong kiến phương Bắc, nhưng người Việt đã biết tiếp thu, học hỏi những yếu tố tiến bộ trong văn hoá Hán, tạo nên những chuyển biến to lớn trong nền kinh tế, xã hội, văn hoá. Lối sống và văn hoá Việt tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn hoá Hán, đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán và dần dần biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô thức mới: Việt – Hán.

Các chính quyền phong kiến phương Bắc, mặc dù đã cố gắng tìm mọi cách để đồng hoá người Việt, song về căn bản trong suốt thời Bắc thuộc vẫn không thể nào trực tiếp với tay tới và can thiệp làm biến đổi được cơ cấu xóm làng cổ truyền của người Việt. Các xóm làng dựa trên cơ sở công xã nông thôn vẫn tồn tại như thế giới riêng của người Việt, là nơi nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa của văn hoá truyền thống làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá.

Trong dọc dài 1000 năm Bắc thuộc, hầu hết các vùng miền của lãnh thổ Âu Lạc cũ đều có những chuyển biến sâu sắc, trong đó khu vực nội thành Hà Nội trở thành trung tâm chính trị lớn nhất, sào huyệt của các chính quyền đô hộ Tuỳ – Đường, và vì thế cũng là địa bàn tập hợp, quy tụ sức quật khởi của cả nước, chứng kiến đầy đủ và tiêu biểu nhất các cuộc đấu tranh chống nô dịch, chống đồng hoá, không ngừng không nghỉ, lúc âm thầm, sâu lắng, lúc bùng lên dữ dội như các cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722), khởi nghĩa Phùng Hưng (791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820), các cuộc đấu tranh giành khôi phục quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương… và cuối cùng là cuộc trung hưng vĩ đại của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền năm 938.

  1. DẤU TÍCH VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA 10 THẾ KỶ CHUYỂN ĐỔI

Chúng tôi vẫn theo quan niệm truyền thống chia toàn bộ thời kỳ Bắc thuộc ra thành 3 giai đoạn là Bắc thuộc lần thứ nhất (từ sau thất bại của An Dương Vương đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng và chính quyền Trưng Vương); Bắc thuộc lần thứ hai (từ sau thất bại của Trưng Vương đến khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân) và Bắc thuộc lần thứ ba (từ sau thất bại của nhà nước Vạn Xuân đến chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền). Sự phân chia giai đoạn như thế này này là hết sức tương đối và còn phải tiếp tục nghiên cứu, tuy nhiên nó vẫn phản ánh được diễn trình lịch sử – văn hóa của hơn mười thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Trong mỗi thời kỳ, chúng tôi chỉ chọn giới thiệu một vài dấu tích văn hóa vật chất tiêu biểu và được xem là đặc trưng cho diễn trình văn hóa của giai đoạn lịch sử đó.

2.1. Bắc thuộc lần thứ nhất: Vai trò chủ đạo của văn hóa Đông Sơn cổ truyền

Âu Lạc rơi vào ách thống trị của Nam Việt trong bối cảnh hóa Đông Sơn đang phát triển đến đỉnh cao, tiêu biểu là trống đồng Cổ Loa (loại I) bên trong có gần 200 hiện vật đồng gồm vũ khí (giáo, lao, mũi tên đồng, rìu xéo), công cụ sản xuất (lưỡi cày đồng, dao nhỏ); khuôn đúc mũi tên 3 cạnh và hàng vạn mũi tên đồng… tìm được trong lòng đất Cổ Loa. Thời kỳ này văn hóa Đông Sơn vẫn phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong dòng chẩy văn hóa trên địa bàn Âu Lạc cũ, tuy nhiên cũng đã có sự tiếp xúc với văn hóa Hán và cũng bắt đầu có sự dung hợp văn hóa Hán – Việt.

Trong một số ngôi mộ Đông Sơn, các nhà khảo cổ học đã nhận ra bên cạnh đồ đồng “kiểu Đông Sơn” đã có một ít đồ đồng kiểu Hán. Mộ thuyền Việt Khê (Thủy Nguyên, Hải Phòng) ngoài những đồ đồng dáng vẻ Đông Sơn như trống đồng loại I, rìu lưỡi xéo… là một số đồ đồng Trung Quốc như đỉnh đồng, chuông đồng nhỏ có chữ triện. Đáng chú ý là ở Thiệu Dương, Đông Sơn (Thanh Hóa), Châu Can (Phú Xuyên, Hà Nội) có nhiều ngôi mộ cổ thuộc thời kỳ cuối Tây Hán, đầu Đông Hán được khai quật có nhiều công cụ và vũ khí bằng đồng, gương đồng, tiền Ngũ Thù… về hình loại có nhiều nét tương tự như các đồ đồng phát hiện được trong các mộ cổ quách gỗ tại Quảng Châu (Trung Quốc). Bên cạnh đồ đồng ở các di chỉ Đông Sơn và Thiệu Dương, khảo cổ học còn tìm được một số đồ sắt như rìu, dao, kiếm. Những đồ sắt này có thể do người Trung Quốc mang sang, do mua bán, trao đổi, nhưng chắc chắn không ít trong đó là được chế tạo tại chỗ mà chứng tích còn có thể tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hóa Đường Cồ như Gò Chiền Vậy, Cổ Loa… Kỹ thuật rèn đúc sắt bắt đầu phát triển đánh dấu một bước chuyển biến rất quan trọng của nền văn hóa vật chất và kinh tế vùng Giao Chỉ, Cửu Chân.

Tư liệu khảo cổ học cho phép hình dung trong hơn hai thế kỷ Bắc thuộc lần thứ nhất trên đất Âu Lạc cũ, bên cạnh những xóm làng của người Việt là những nhà sàn dựng dọc theo bờ một con sông hay cụm lại ở khu vực ngã ba sông cổ còn có thành quách với nhà cửa, giếng nước, bếp lò, chuồng trại của người Hán. Bên cạnh những mộ đất, mộ quan tài hình thuyền với những đồ tùy táng thuộc loại hình văn hóa Đông Sơn và những mộ đất, mộ quách gỗ với những hiện vật chôn theo thuộc văn hóa Hán hoặc mang những nét đặc trưng của văn hóa phương Bắc. Các công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí trong các mộ Việt như đồ gốm Đường Cồ, Đông Sơn, rìu lưỡi xéo, trống đồng và trong các mộ Hán như đỉnh, bình miệng vuông, kiếm, dao, sắt, cốc đốt trầm, móc đai lưng, gương đồng, các hiện vật thuộc văn hóa Hán được chôn cùng với các hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn trong mộ Việt và các hiện vật Đông Sơn hay mang kiểu dáng đặc trưng Đông Sơn trong mộ Hán… không chỉ xác nhận sự tồn tại song song của hai lối sống, hai phương thức sinh hoạt, mà bước đầu đã có sự thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau giữa hai khu vực Việt – Hán. Như thế lúc này trên cơ tầng văn hóa Việt đã vận hành một cơ chế Hán, trong đó lối sống và văn hóa Việt do tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn hóa Hán đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hóa Hán và đang biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô thức mới Việt – Hán.

Trong khi đó trên địa bàn duyên hải miền Trung từ Quảng Bình kéo vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, khảo cổ học cũng phát hiện được một số hiện vật như đồ sắt mô phỏng đồ sắt, đồ đồng Tây Hán, tiền Ngũ Thù ở Hội An, Duy Xuyên, gương đồng và bộ đồ nghi lễ bằng đồng Tây Hán ở Quế Sơn, Duy Xuyên… Đây là chính là hình ảnh của sự tiếp xúc, giao lưu, ảnh hưởng văn hóa Sa Huỳnh – Hán trong những thế kỷ trước, sau Công nguyên[1]. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này còn hết sức mờ nhạt, thậm chí còn mờ nhạt hơn khu vực phía Bắc, vì trong thực tế từ sau năm 111 trước Công nguyên cả 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam đều bị đặt dưới ách đô hộ của nhà Tây Hán, nhưng Nhật Nam xa xôi và cách trở hơn nên mức độ ảnh hưởng của văn hóa Hán không ngang bằng khu vực các quận Giao Chỉ và Cửu Chân[2].

Nhìn một cách tổng thể thời kỳ từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên cho đến đầu Công nguyên vẫn là thời kỳ tồn tại của cơ cấu văn minh Đông Sơn với mô thức kinh tế-văn hóa nông nghiệp lúa nước cổ truyền sơ kỳ thời đại đồ Sắt Việt Nam. Nền văn minh Việt cổ vẫn thể hiện đầy đủ sức sống mãnh liệt của nó và là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cuộc đồng khởi toàn dân do Hai Bà Trưng lãnh đạo vào mùa xuân năm 40, kết thúc 2 thế kỷ đô hộ của phương Bắc, “rửa sạch nước thù”, “nối lại nghiệp xưa họ Hùng”.

Tuy nhiên, không đầy 3 năm sau, năm 43, trước sức tấn công của quân đội nhà Hán do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng thất thủ, đất nước lại rơi vào ách cai trị của Đông Hán, mở đầu giai đọan Bắc thuộc lần thứ hai.

2.2. Bắc thuộc lần thứ hai: Mô thức văn hóa Việt – Hán

Sau khi đánh bại khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện tiến hành chia cắt lại địa giới hành chính một số huyện, thay thế hoàn toàn tầng lớp Lạc tướng, cử các Lệnh trưởng thay mặt cho chính quyền đô hộ trực tiếp đứng đầu cai quản các huyện. Tại mỗi huyện, hệ thống thành luỹ được xây dựng làm nơi đóng trị sở của Lệnh trưởng. Huyện thành Phong Khê (Kiển Thành) được xây dựng ngay trên thành đô của An Dương Vương, mà nhiều người tin đấy chính là vòng thành Nội của thành Cổ Loa hiện nay[3]. Điều có thể dễ dàng nhận thấy là cấu trúc của vòng thành này giống thành Trung Quốc, chu vi 1.650 m, với nhiều hoả hồi cân xứng, có tử giác, khác với cấu trúc uốn lượn tự do của hai vòng thành Trung và thành Ngoại. Tại khu vực bên trong thành Nội đã khai quật được rất nhiều di vật đặc trưng văn hoá Hán như giếng gạch, tiền Ngũ thù, đồ gốm trang trí hoa văn ô vuông, trám lồng, văn thừng, xương cá… được coi là các loại hoa văn điển hình của thời Đông Hán. Ở Cổ Loa và khu vực lân cận khảo cổ học đã khai quật được một số lượng lớn mộ gạch Hán[4]. Sự xuất hiện những ngôi mộ gạch ở khu thành này chứng tỏ từ thời Đông Hán, quan lại người Hán đã sống và trực tiếp cai quản vùng đất bản bộ của vua Thục xưa.

Quận trị Giao Chỉ vẫn đặt tại Luy Lâu. Thành Luy Lâu được khởi đắp từ thời Hán, nhưng tòa thành 2 vòng khép kín (thành ngoài hình chữ nhật, chu vi 1848 m; thành trong hình vuông chu vi 454 m) tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) còn lại đến ngày nay chủ yếu là dấu vết thời kỳ này. Đây là tòa thành quy mô và kiên cố nhất trong quận. Đô thị Luy Lâu tiếp tục phát triển không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, mà còn là trung tâm văn hóa lớn nhất.

Thái thú Sĩ Nhiếp “có học vấn sâu rộng lại thông hiểu về chính trị” mở trường dạy học và đẩy mạnh truyền bá Nho giáo ở Luy Lâu. Ngôi trường dạy học của ông ở trong thành Luy Lâu sau này trở thành đền thờ Nam Giao học tổ (ông tổ Nho học của nước Nam). Bên cạnh Nho giáo, Đạo giáo từ Trung Quốc (mà chủ yếu là đạo Dân gian – đạo Phù thủy) cũng được truyền sang khu vực Luy Lâu từ khoảng cuối thế kỷ thứ II. Đặc biệt Phật giáo từ Ấn Độ được truyền bá trực tiếp vào Luy Lâu (sau đó lại từ Trung Quốc truyền dội sang vào những thế kỷ đầu sau Công nguyên). Ngay từ khi mới vào Luy Lâu, Phật giáo đã có sự kết hợp một cách tự nhiên và hài hòa với tín ngưỡng dân gian của cư dân bản địa, hình thành Phật tổ Man Nương chùa Tổ (làng Mãn Xá) và Tứ pháp: Pháp Vân (chùa Bà Dâu), Pháp Vũ (chùa Bà Đậu), Pháp Lôi (chùa Bà Giàn) và Pháp Điện (chùa Bà Tướng) nay vẫn còn tại khu vực xung quanh thành Luy Lâu.

Nhìn chung dù là Nho, Phật hay Đạo được truyền vào Luy Lâu bằng con đường nào, trong hoàn cảnh nào thì khuynh hướng thích nghi và hòa nhập với tín ngưỡng dân gian cổ truyền của người Việt vẫn là khuynh hướng chủ đạo. Khuynh hướng này đã tạo nên săc thái đa nguyên và hỗn hợp trong cuộc sống tôn giáo và tín ngưỡng ở Luy Lâu và ở Giao Châu. Đây cũng chính là hình ảnh thể hiện sự dung hợp và xác lập mô thức Việt – Hán.

Suốt mấy thế kỷ liên tục tính từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hầu như­ không có thế kỷ nào là không có khởi nghĩa của nhân dân. Phong trào đấu tranh của dân chúng Giao Châu, nhìn một cách tổng thể, đang chuyển dần vai trò lãnh đạo từ các quý tộc bộ lạc cũ sang các hào tr­ưởng. Vào giữa thế kỷ thứ VI, phong trào đã tiến lên đỉnh cao, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập Nhà n­ước Vạn Xuân.

Lý Bí xuất thân từ một hào tr­ưởng địa phư­ơng ở huyện Thái Bình, trong một gia đình tổ tiên người gốc phương Bắc, nhưng qua nhiều đời định cư ở phương Nam và trở thành người Nam. Ông là người có tài văn võ, đã từng nhận một chức quan nhỏ của nhà Lương ở Cửu Đức. Bất bình với chính quyền đô hộ, Lý Bí trở về quê phối hợp với Tinh Thiều (đại diện của trí thức bản địa) m­ưu tính việc khởi nghĩa. Mùa xuân năm 542, cuộc khởi nghĩa toàn dân do Lý Bí lãnh đạo đã bùng nổ và không đầy 3 tháng sau đã giành được thắng lợi. Lý Bí còn tổ chức lực lượng đánh tan các cuộc tấn công của quân Lương và quân Lâm Ấp, nắm quyền làm chủ đất nước. Vào đầu năm 544, ông tuyên bố dựng n­ước Vạn Xuân, lên ngôi Hoàng đế (Nam Việt Đế), phế bỏ niên hiệu của nhà Lư­ơng, đặt niên hiệu mới là Thiên Đức, tự coi mình ngang hàng với các Hoàng đế phương Bắc. Ông là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận ra vị trí trung tâm bờ cõi của vùng đất Hà Nội và chọn làm đất đóng đô. Tại đây ông cho dựng điện Vạn Thọ, xây đài Vạn Xuân làm nơi văn võ bá quan triều hội[5] và chùa Khai Quốc là trung tâm Phật giáo quốc gia, bệ đỡ tư tưởng của Vương triều[6].

Đây là lần đầu tiên ng­ười Việt phương Nam tự xây dựng cho mình một cơ cấu nhà nư­ớc mới theo chế độ tập quyền trung ương. Tuy đang còn là một sự thể nghiệm, nhưng triều đình Vạn Xuân là thành quả của một nửa thiên niên kỷ dung hợp văn hóa Việt – Hán, đã đánh dấu một bước trưởng thành mới của cuộc đấu tranh chống nô dịch, chống đồng hóa.

2.3. Bắc thuộc lần thứ ba: Phục hưng văn hóa Việt

Năm 602, nhà nước Vạn Xuân bị Lưu Phương nhà Tùy đánh bại. Năm 607, nhà Tùy tiến hành chia đặt lại quận huyện và chuyển trị sở quận Giao Chỉ về Tống Bình. Từ đây, miền đất trung tâm Hà Nội chính thức trở thành thủ phủ của chính quyền đô hộ phương Bắc. Hơn một thập kỷ sau, nhà Đường thay thế nhà Tùy, lập Giao Châu đô hộ phủ rồi sau đó đổi thành An Nam đô hộ phủ. Trị sở của An Nam đô hộ phủ vẫn đóng tại Tống Bình.

Nhà Đường đã liên tiếp cho xây dựng tại Tống Bình nhiều thành luỹ để làm lỵ sở của chính quyền cai trị. Toà thành đầu tiên do Khâu Hoà xây dựng với tên gọi Tử thành. Năm 767, Trương Bá Nghi cho đắp La Thành là toà thành quân sự kiên cố có quy mô lớn đầu tiên được xây dựng tại trung tâm nội thành Hà Nội. Trong những năm 791 và 801, Triệu Xương, Bùi Thái đều tiến hành sửa đắp La Thành. Năm 808, Trương Châu sửa lại thành Đại La và gọi tên là An Nam La Thành. Năm 824, Lý Nguyên Hỷ cho đắp một thành mới bên bờ sông Tô Lịch, cũng gọi là La Thành. Các năm 843, 858 Vũ Hồn và Vương Thức cho sửa đắp lại phủ thành. Năm 866, Cao Biền tổ chức đắp lại La Thành chu vi 1980 trượng 5 thước, cao 2 trượng 6 thước, chân rộng 2 trượng 6 thước, xây nữ tường cao 5 thước 5 tấc, dựng 55 địch lâu, 5 môn lâu, 6 ủng môn, đào 3 đường nước, đắp 34 đạp đạo, ngoài đắp đê bao quanh dài 2125 trượng 8 thước, cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 3 trượng, dựng hơn 5.000 gian nhà.

Như vậy, có nhiều toà thành khác nhau của An Nam đô hộ phủ thời Đường cùng được gọi là La Thành hay thành Đại La. Những toà thành này vào các đời sau đã nhiều lần được cải tạo, thay đổi nên hầu như không còn để lại dấu tích trên mặt đất khiến cho các nhà nghiên cứu thật khó có thể xác định được số lượng cũng như cấu tạo của hệ thống thành luỹ đã từng được dựng lên trong thời thuộc Đường tại trung tâm Hà Nội. Những dấu tích mới phát hiện tại 18 Hoàng Diệu và khu khuôn viên xây dựng Hội trường Ba Đình từ năm 2002 đến nay không chỉ có giá trị kiểm chứng các nguồn tư liệu thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam mà còn cho phép có những nhìn nhận cụ thể, chính xác hình ảnh của khu trung tâm Đại La Thành. Đó là những móng trụ kiến trúc, bó nền nhà, nhiều viên gạch có in nổi ba chữ “Giang Tây Quân”, dấu tích kiến trúc, nhà cửa, giếng nước, cống thoát nước, một số đồ gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc và Tây Á… có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX nằm ở lớp cuối cùng của di tích.

Trong hơn 3 thế kỷ thuộc Đường, chính quyền đô hộ phải liên tiếp cho xây dựng, gia cố thành luỹ vì chúng luôn phải đối phó với những cuộc nổi dậy quy mô ngày càng lớn của dân chúng.

Mai Thúc Loan khởi nghĩa ở Hoan Châu xây dựng lũy Vạn An dọc theo bờ sông Lam rồi kéo đại quân đánh thẳng vào sào huyệt của chính quyền đô hộ ở thành Tống Bình.

Phùng Hưng là người hào trưởng đất Đường Lâm nổi dậy làm chủ quê hương rồi tiến quân bao vây, đánh chiếm phủ thành Tống Bình, tổ chức việc cai trị. Khu vực nội thành Hà Nội và phụ cận có đền thờ và lăng Phùng Hưng ở Triều Khúc, Phùng Khoang, Nhân Chính (quận Thanh Xuân), Quảng Bá (quận Tây Hồ), Kim Mã, Hào Nam (quận Đống Đa) là phản ánh hoạt động của Phùng Hưng ở đây. Làng Đường Lâm vốn có truyền thống rất lâu đời, nhưng chỉ đến Phùng Hưng mới thực sự trở thành làng quê tiêu biểu nhất của lịch sử chống Bắc thuộc, chống đồng hóa của Việt Nam.

Đầu thế kỷ thứ X, nhân cơ hội chính quyền trung ương nhà Đ­ường đang đứng tr­ước nguy cơ sụp đổ, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy đánh chiếm La Thành, lật đổ chính quyền đô hộ của nhà Đường, xây dựng chính quyền tự chủ.

Năm 907 Khúc Thừa Dụ qua đời, con trai cả là Khúc Hạo nối nghiệp, tiếp tục đóng đô ở La Thành, thi hành nhiều cải cách quan trọng để cải thiện đời sống nhân dân và chăm lo xây dựng nền độc lập dân tộc. Khúc Hạo qua đời, con trai là Khúc Thừa Mỹ lên thay đã hoàn toàn thất bại trước cuộc tấn công tái xâm lược của nhà Nam Hán. Đất nước lại bị rơi vào ách đô hộ của phương Bắc.

Năm 931, Dư­ơng Đình Nghệ, tư­ớng cũ của họ Khúc, đem quân từ vùng châu Ái (Thanh Hóa) tiến ra đánh chiếm thành Đại La và đánh tan đoàn quân tiếp viện của Nam Hán, một lần nữa giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của phương Bắc. Dư­ơng Đình Nghệ vẫn đóng đô ở thành Đại La, cắt đặt tướng lĩnh nắm giữ các vùng trọng yếu, chăm lo củng cố chính quyền, tiếp tục công cuộc tự chủ của họ Khúc.

Đầu năm 937, ông bị viên thuộc tư­ớng phản bội là Kiều Công Tiễn giết chết. Ở khắp mọi nơi, dân chúng dư­ới sự lãnh đạo của các t­ướng lĩnh cũ của D­ương Đình Nghệ đã liên tục nổi dậy chống lại Kiều Công Tiễn và tập hợp xung quanh Ngô Quyền.

Cuối tháng 10 năm 938, nhận thấy nguy cơ xâm lư­ợc của quân Nam Hán đã đến gần, Ngô Quyền từ vùng châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn, củng cố thành Đại La và kéo đại quân ra cửa biển Bạch Đằng chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Cuối tháng 12 năm 938, đoàn binh thuyền của quân Nam Hán do Hoằng Tháo chỉ huy từ Quảng Đông vư­ợt biển tiến vào cửa biển Bạch Đằng. Ngô Quyền cho quân khiêu chiến để dụ quân Nam Hán tiến nhanh vào phía trong hàng cọc đã được bố trí sẵn. “Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nư­ớc triều rút, cọc nhô lên, Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu”[7]. Quân Nam Hán ở trư­ớc mặt, sau lư­ng, d­ưới nước, trên bờ đều bị đánh quyết liệt. Số lớn thuyền chiến của địch đã bị cọc sắt đâm thủng, bị va vào nhau mà chìm đắm. Chủ tư­ớng địch là Hoằng Tháo đã bị bắt sống và giết tại trận.

Trong khí thế chiến thắng, đầu mùa xuân năm sau, năm 939, Ngô Quyền xư­ng Vư­ơng, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) khẳng định tiếp tục sự nghiệp dựng nước và giữ nư­ớc đời Hùng Vư­ơng – An Dư­ơng V­ương. Ông kiên quyết cắt đứt mọi quan hệ lệ thuộc đối với n­ước ngoài, xây dựng một vư­ơng quốc độc lập đàng hoàng.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là một vũ công hiển hách, đời đời bất diệt, một cột mốc bản lề chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn 1000 năm của phong kiến phư­ơng Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của Việt Nam. Nhà yêu nước Phan Bội Châu đầu thế kỷ XX đã gọi Ngô Quyền là vị Tổ Trung hưng của nước Việt Nam ta, chỉ đứng sau Thủy tổ dựng nước là Hùng Vương. Khẳng định này đồng nghĩa với việc xác nhận sự nghiệp của Ngô Quyền là kết tinh sức mạnh phục hưng kỳ diệu của văn hóa Việt.

 

[1] Lâm Mỹ Dung, Yếu tố Hán ở miền Trung Việt Nam những thế kỷ trước, sau Công nguyên trongMột chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 59-75.

[2] Cuộc đấu tranh chống Hán hóa ở đây diễn ra chậm hơn ở khu vực phía Bắc, nhưng từ đầu thế kỷ thứ II cũng đã phát triển mạnh, làm cơ sở cho sự ra đời của nhà nước Lâm Ấp độc lập ở huyện Tượng Lâm vào thập kỷ cuối của thế kỷ thứ II. Chính quyền đô hộ phương Bắc nhièu lần tổ chức lực lượng đàn áp, nhưng Lâm Ấp đã biết dựa vào địa thế xa xôi, hiểm trở này mà đã bảo vệ thành công nhà nước non trẻ của cư dân và văn hóa Sa Huỳnh, là tiền thân của vương quốc Chămpa  độc lập sau này.

[3]Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề Kiển Thành, song phần lớn các ý kiến đều cho rằng toà thành do Mã Viện xây dựng ở vào vị trí Loa Thành cũ của An Dương Vương. Trương Hoàng Châu trong bài Chung quanh vấn đề toà thành cổ trên đất Cổ Loa, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 128, năm 1969 viết: “Toà thành đất hiện nay tồn tại ở khu vực Cổ Loa được xây dựng bắt đầu từ thời Mã Viện sang nước ta”; Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời lại cho rằng Mã Viện bị quân Hai Bà Trưng tại thành Cổ Loa chống cự quyết liệt nên sau khi chiến thắng đã chia nhỏ huyện Tây Vu, đồng thời nhân thành cũ của An Dương Vương mà xây thêm và đặt tên mới để giữ huyện Phong Khê mới lập; Đỗ Văn Ninh trong Thành cổ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1983 khẳng định: “Vòng thành trong Cổ Loa là kiến trúc thuộc Hán, nói rõ hơn đây là Kiển Thành do Mã Viện cho đắp sau khi lập huyện Phong Khê và cũng là trị sở huyện Phong Khê”.

[4] Những ngôi mộ này có niên đại từ Đông Hán đến Đường như mộ gạch ở cánh đồng Trung Thôn (Tiên Hội) khoảng thế kỷ I-III, mộ gạch tại gò Đống Mây, Đống Trọc, Đống Trong Đường (Dục Tú) khoảng từ thế kỷ III-VI; mộ gạch tại Bãi Mèn niên đại Đông Hán; mộ gạch tại Mạch Tràng có những viên gạch ghi niên đại Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị thái (năm 99) hay Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm 111); mộ gạch tại Trại Xóm Vang (Cổ Loa) khoảng thế kỷ II-III…

[5] Dựa vào những kết quả khảo sát và nghiên cứu mới hiện nay, chúng tôi cho rằng hoàn toàn có cơ sở để xác định kinh đô Vạn Xuân của Lý Nam Đế được xây dựng trên vùng đất Hà Nội cổ.

[6] Chùa Khai Quốc do vua Lý Nam Đế cho xây dựng ở khu vực thôn Yên Trì, phía bãi sông Hồng, ngoài đê Yên Phụ, Hà Nội. Chùa sau này trở thành trung tâm Phật giáo và Phật học lớn, có nhiều nhà sư nổi tiếng trụ trì. Năm 1615, vì bãi sông Hồng sụt lở, dân phường Yên Hoa (Yên Phụ) dời chùa vào phía trong đê, tức là chùa Trấn Quốc hiện nay.

[7] Đại Việt sử ký toàn th­ư, Q. V-19b-20a, bản dịch Sđd, T. I, tr. 203-204.

Nguồn: http://chuyencuachi.blogspot.com/2012/03/bac-thuoc-va-chong-bac-thuoc-nhung-dau.html

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40)

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (40 Công nguyên) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu Công nguyên.

Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội quân của Hai Bà.

Đó là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN – 39 CN).

 

Hai Bà là con gái Lạc Tướng huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng – họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ.

Ngày 01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14 CN) bà Man Thiện sinh một lần được hai con gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3 năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc (lứa đầu – ”lứa chắc” theo cách tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị (”lứa nhì”- lần thứ hai)

Năm 19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn (32 CN). Vợ chồng đoàn tụ mới được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ vì con hai nhà tướng kết hôn với nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị của nhà Hán.

Căm giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc đã cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các Lạc hầu, Lạc tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên cùng đánh giặc. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa đều nổi lên hưởng ứng.

Cuộc khởi nghĩa ấy chia ra các giai đoạn như sau:

I – THỜI KỲ TRƯỚC NGÀY TUYÊN BỐ KHỞI NGHĨA

Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà Trắc quyết chí phục thù trả oán. Bà tiến hành tổ chức chứa tích lương thực, vận động thu dùng các anh hùng hào kiệt trung thiên hạ, những người cùng chí hướng, chiêu binh tuyển tướng ở các địa phương, nên người theo về ngày một đông.

Để đảm nhận công việc trọng đại ấy, bà Nhị được chị gái cất nhắc làm chức ”Bình khôi” sau khởi nghĩa phong làm ”Bình khôi công chúa” – tức là vị công chúa đứng đầu thu phục thiên hạ. Rồi gửi tờ hịch chiêu dụ mọi người trong toàn quận Giao Chỉ, bởi vậy các nướng, nữ quân chiếm đa phần trong tổng số lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.

 

Tháng Giêng năm Canh Tý (40CN), tất cả các tướng ở mọi vùng đều đã tiến quân về họp lại ở thành Phong Châu sông Bạch Hạc để khao thưởng các quân sĩ.

II – KHỞI NGHĨA Ở CỬA SÔNG HÁT

Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.

Nơi ấy nay thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu sông Hồng 6 km, gần chỗ cửa Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên như sau:

”Trời sinh một người làm tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng buộc vào đấy, cỏ cây quan hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương thiên tử đều là bậc thánh minh, khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có người hơ khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.

Thiếp là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy binh dẹp giặc, che chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không phụ ý trời, thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời, không phụ sự trông đợi của tổ phụ nơi chín suối”

 

Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến quân về thành Long Biên đánh Tô Định.

III – CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ (42.CN) ĐẠI THẮNG

Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ Lôi dựng đồn đóng quân.

Đêm đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới quyền được chọn làm tướng ”thủ túc” (thân cận, gần gũi như tay chăn), và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm thường trực ở bên cạnh Trưng Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn khao quân ở Hạ Lôi 10 ngày, rồi chia quân làm 5 đạo. Tất cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định.

Cảnh tượng ngày xuất quân thật oai hùng: ”Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm liệt, tướng nữ lạnh lùng”. Trước sức mạnh như vũ bão của đội quân Hai Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến, chống đỡ, nên khi quân đội của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết thua chạy và bị giết ”máu chảy thành ao, xương tụ thành gò”, xác giặc chồng chất làm cho ”dựng sông nghẽn chảy”, Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà Hán. Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích, thu phục được 65 thành.

IV – VƯƠNG TRIỀU HỌ TRƯNG

”Đại Việt sử ký toàn thư” chép là ”Trưng Nữ Vương Kỷ”

Đất nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà Trưng Trắc lên ngôi Vương, đứng đầu bộ máy nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong thưởng thứ bậc công thần cho các tướng sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về nơi căn cứ cũ của mình xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho triều đình.

Ở trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban ”văn – võ”. Tất cả đều có chữ ”tiết ché’ (nghĩa là ”chỉ huyết), đặt quan chia chức đảm nhận công việc Nhà nước. Lại xây dựng 1 ”Sở hành cung” ở xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ”Sở thiết triều” (nơi bàn việc nước lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi là ”thành ống”. Đồng thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền, tất cả đều nằm ở phía Tây Bắc ”hành cung” Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo vệ.

Sau đó, bà Trưng Trắc đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là ”hành cung” xứ đầu voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ Hợp huyện Chu Diên. Từ đó chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm đềm, lòng dân theo phục.

V – CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN

Năm 41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được xác lập, do Bà Trưng Trắc làm tôn quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu, huyện phía nam là Trường Sa, Hợp Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường thông các núi khe, chứa thóc lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng sắp tới. Ngay sau đó, Hán Quang Vũ lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở lại Giao Chỉ. Mã Viện vui mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với phó tướng là Phù Lạc Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân đem 30 vạn quân tiến vào nước ta để đánh Trưng Vương.

Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang.

1 – Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn

Được tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử Trưng Nhị và hai đại tướng đem quân lên đánh chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao chiến. Thấy tình thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ thanh thế rất to.

Để chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân lên thành Lạng Sơn cự chiến Mã Viện là viên tướng già (lúc này Viện đã ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết Trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng Sơn, cầm chân quân đội của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở những nơi hiểm trọng, không chịu ra đánh. Đại quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.

2 – Âm mua của Mã Viện

Trong khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn 5 vạn quân bí mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5 ngày sau đã đến khu Thanh Trước, dựa vào địa hình núi mà đồn binh, tích trữ lương thảo. Rồi Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật do bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội Hai Bà. Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.

Cự Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng thủ ở mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã Viện không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán, vì thành được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không nước ngập, địa hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ tấn công thành Dền, Mã Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế sẵn có của một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh đồng Vượn đắp trong một đêm phải xong.

Một trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền cũng bị hạ. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã Viện không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà, yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu. Sau đó, Mã Viện lại kéo quân lên thành Lạng Sơn, trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.

3 – Trận chiến ở Lãng Bạc

Sau khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận phía trước và phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên gặp nhau ở Lãng Bạc, địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du – Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Một trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ”Toàn thư” chép: ”Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm Khê”

4 – Công cuộc cố thủ cấm Khê

Sau khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và kinh đô Mê Linh đã bị thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm, tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên Nội, Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà Trưng.

Ở cấm Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường tiếp lương, cỏ ngựa, phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã bị Mã Viện phá hết, nhưng không thể tự phá trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy nay sẽ khống còn, Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:

Sinh ra làm người, thà làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?

Thế là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân – thần – tướng – tá đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi lần lượt bị Mã Viện đánh bại.

Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:

Bà Trưng quê ở Châu Phong

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một lời nguyền

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân

Ngàn tây nổi áng phong trần

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên

Hồng quần nhẹ bước chinh yên

Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành

Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta

Ba thu gánh vác sơn hà

Một là báo phục hai là Bá Vương

Uy danh động tới Bắc Phương

Hán sai Mã Viện lên đường tấn công

Hồ Tây đua sức vẫy vùng

Nữ nhi địch với anh hùng được sao!

Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo

Hai Bà thất thế cùng liều với sông!

Trước là nghĩa, sau là trung

Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.

Nguồn: http://www.maxreading.com/sach-hay/su-kien-lich-su-viet-nam/3-40-khoi-nghia-hai-ba-trung-8312.html

Các khu lò sản xuất gốm 10 thế kỷ đầu công nguyên

10 thế kỷ đầu Công nguyên là một giai đoạn lịch sử đặc biệt trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đây là giai đoạn mà Việt Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ, là giai đoạn người Việt luôn luôn nổi dậy đấu tranh giành quyền độc lập. Mở đầu giai đoạn này là từ năm 1979 trước Công nguyên khi Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc của An Dương Vương và kết thục vào năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng mở đầu thời độc lập tự chủ.

Vò 10 thế kỷ đầu công nguyên

Ở giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được thành tựu lớn trong sản xuất đồ gốm. Từ gốm đất nung ở nhiệt độ thấp, với sự xuất hiện của gốm sành các khu lò, được nung trong các lò nung có nhiệt độ cao là bước nhảy vọt và gốm tráng men, cốt làm từ caolin, gốm được sản xuất tập trung thành then chốt. Những kỹ thuật làm gốm men và kỹ thuật nung gốm trong lò, kiểu dáng đồ gốm có ảnh hưởng nhất định từ Trung Hoa. Những đồ gốm được làm tại Việt Nam theo phong cách Trung Hoa mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi là gốm Việt – Hán đã được sản xuất trong giai đoạn này. Cùng với nó là một hệ thống lò gốm lần lượt xuất hiện. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện được nhiều khu lò sản xuất gốm cổ ở miền Bắc Việt Nam, tập trung ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Thanh Hóa. Vào thời điểm đó, đây là ba trung tâm sản xuất gốm chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam. Những cuộc khai quật khảo cổ học đặc biệt trở nên quan trọng trong việc làm sáng tỏ các khu lò sản xuất gốm trong các trung tâm này.

Hũ 10 thế kỷ đầu công nguyên

Trung tâm gốm Vĩnh Phúc

Tại đây đã phát hiện được các lò sau:

– Khu lò Thanh Lãng (thuộc xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên): là khu lò rất lớn, các lò nung gốm tập trung thành nhiều cụm lò từ 5-6 lò nung, nằm trên các sườn đồi hoặc gò đất cao ven dòng sông cổ vốn là nhánh của sông Cà Lồ. Phạm vi phân bố trải dài qua nhiều thôn như Minh Lương, Bên Đường và Hồng Hồ. Viện Khảo cổ học đã khai quật 2 khu lò gốm trong số hàng chục lò nung gốm còn lại. Các lò nung gốm đều được đắp bằng đất, dựa vào địa hình tự nhiên của gò đồi. Sản phẩm của các lò gốm ở đây là đồ sành và bát loại to, đáy tròn, trong lòng có các đường cạo men hình tứ giác. Khu lò gốm có niên đại từ cuối thời Lục triều đến đầu thời Đường.

– Khu lò Lũng Ngoại (thuộc xã Lũng Hòa, huyện Yên Lạc): đây cũng là một khu lò lớn, mật độ phân bố của các lò nung ở đây dày đặc, trải dài gần 1 km ven bờ Đông của dòng sông Phan. Khu lò này do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phát hiện và khai quật 1 lò gốm còn nguyên vẹn nhất. Năm 2003, Viện Khảo cổ học tiếp tục khai quật thêm 1 lò nung gốm nữa. Sản phẩm của các lò gốm ở đây là các loại vò sành 4-6 núm, bát, chậu, âu sành và đồ gốm men ngà. Loại bát gốm tráng men ngà tìm được trong lò là loại bát to, đáy gẫy, chân đế đặc, lòng có các đường cạo men hình tứ giác. Khu lò có niên đại khoảng đầu đến giữa thời Đường. Một số địa điểm khảo cổ học ở vùng ven biển Thanh Nghệ, Quảng Ninh cũng đã phát hiện được loại bát này, nhiều khả năng các lò gốm này đã tham gia vào việc buôn bán trong con đường tơ lụa thời Đường đi qua vùng biển Việt Nam. Một số địa điểm trong Hoàng thành Thăng Long như Bắc Môn, Trần Phú cũng tìm được loại bát này.

– Khu lò Đồng Đậu (thị trấn Minh Tân, huyện Yên Lạc): khu lò này nằm ngày dưới chân di chỉ thời đại kim khí Đồng Đậu. Nó được phát hiện ngẫu nhiên trong đợt khai quật di chỉ này. Hiện nay khu lò đã bị phá hủy hoàn toàn. Cấu trúc của lò gốm còn mang ảnh hưởng của lò gốm Nam Trung Quốc. Sản phẩm của lò là gạch múi bưởi in văn ca rô, trám lồng, sóng nước, bát đĩa bán sứ tráng men ngà rất giống với sản phẩm của lò Đại Lai (Bắc Ninh), đặc biệt là sự gần gũi nhau trong các ký hiệu khắc ở đáy bát, đĩa. Khu lò có niên đại khoảng đầu thời Lục triều.

Trung tâm gốm Thanh Hóa

Tại Thanh Hóa có một khu lò nung quy mô rất lớn đã được phát hiện, đó là khu lò Tam Thọ (xã Đông Vinh, huyện Đông Sơn). Khu lò gốm Tam Thọ được Olov Janse phát hiện và khai quật lần đầu tiên vào năm 1939. Trong lần khai quật này, ông đã phát hiện được hàng chục lò nung gốm, và lần đầu tiên chúng ta được biết rằng những đồ gốm Việt – Hán đã được sản xuất tại Việt Nam vào thời Đông Hán và Lục triều. Năm 2000 và 2001 khu lò gốm này được đào thám sát và khai quật lần thứ hai… Kết quả là đã phát hiện được thêm lớp lò thứ ba có niên đại khoảng đầu Công nguyên cùng với hai lớp lò nung gốm có niên đại từ thế kỷ II đến thế kỷ thứ IV. Những đồ sành và đồ gốm men, sản phẩm gốm gia dụng và gốm xây dựng của các lò gốm Tam Thọ được xác định một cách rõ ràng hơn. Trong khu vực Tam Thọ – Văn Vật còn phát hiện được một hệ thống gốm sành Việt nữa có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, cùng một di chỉ thời Trần thế kỷ XIII-XIV. Trong khoảng 4 thế kỷ hoạt động, tuy chỉ có một khu lò nung nhưng trung tâm gốm Thanh Hóa đã có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiêu thụ gốm ở miền đồng bằng Bắc Bộ và vùng Thanh Nghệ. Hầu hết ở các tỉnh thành miền Bắc. Trong các di chỉ và mộ táng thời Đông Hán và đầu thời Lục triều đều tìm được sản phẩm của lò gốm Tam Thọ, trung tâm gốm Thanh Hóa đã mở đầu cho một dòng gốm mới bên cạnh dòng gốm Đông Sơn truyền thống.

Trung tâm gốm Bắc Ninh

Bắc Ninh là một trung tâm lớn với nhiều khu lò gốm như Đại Lai, Luy Lâu, Tam Sơn, Đương Xá.

– Khu lò Đại Lai sản xuất các loại gốm tráng men gia dụng như bát, đĩa, âu, vò, bình… chất liệu bán sứ tiền thân của gốm men ngọc cùng những đồ sành mịn. Niên đại của khu lò kéo dài suốt thời Lục triều. Đây là những lò rồng đầu tiên và sớm nhất được phát hiện ở Việt Nam. Tại đây đã phát hiện được hàng ngàn con kê bát, đĩa – dụng cụ chống dính men trong nung gốm – là một trong những loại con kê gốm cổ nhất được làm bằng chất liệu sành. Nếu như các lò gốm Thanh Lãng, Lũng Ngoại, Tam Thọ cung cấp những đồ đựng Việt – Hán điển hình với số lượng phong phú nhất thì lò Đại Lai lại cung cấp những sản phẩm bát đĩa tráng men điển hình nhất và nhiều nhất thời kỳ này. Những đống đồ gốm phế thải dày trên 2m ở Đại Lai đã cho thấy phần nào quy mô và thời gian sản xuất của khu lò này.

– Khu lò Luy Lâu sản xuất vật liệu xây dựng. Khu lò nằm ngay cạnh thành Luy Lâu thủ phủ thời Đông Hán. Tại đây có hàng chục lò nung xuất lộ. Đó là những lò cóc thời Đường, được bố trí dày đặc tập trung, có thể do chính quyền đô hộ quản lý. Trong các cuộc khai quật thành Luy Lâu, rất nhiều gạch, ngói đã được phát hiện. Nhiều khả năng những vật liệu kiến trúc đó là sản phẩm của các lò nung này.

– Hệ thống lò Đương Xá (xã Vạn An, huyện Yên Phong) là khu vực có nhiều khu lò gốm thuộc nhiều thời đại khác nhau nằm ở bờ phía Đông của sông Ngũ Huyện Khê và sông Cầu. Khu lò Xóm Núi có các lò gốm sản xuất sành thế kỷ IX-X, với các sản phẩm gốm gia dụng như nồi, vò, bát, âu, chậu… Sản phẩm của lò gốm này có mặt ở nhiều vùng thuộc tỉnh Bắc Ninh, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), di chỉ Thái Lai (Vĩnh Phúc). Khu lò Đồng Khống ở xóm Láng tiếp tục truyền thống của các lò gốm Xóm Núi sản xuất đồ sành, đồng thời sản xuất ngói mũi lá, đồ gốm men. Khu lò này có tới hàng chục lò gốm, mật độ phân bố dày đặc. Hai lò gốm trong số đó đã được khai quật vào đầu năm 2004 có niên đại cuối thời Lý đầu thời Trần. Các lò gốm sành tiền thân của làng Thổ Hà nằm trên đất Đương Xá đến chùa Láng có niên đại khoảng đầu thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. Nhiều sản phẩm của các lò gốm ở đây được phát hiện ở vùng ven biển Bắc Việt Nam, trong các khu mộ Mường ở Hòa Bình, mộ cổ ở huyện Lục Yên (Yên Bái), trong di chỉ và mộ táng ở huyện Sóc Sơn, thành Thăng Long (Hà Nội)…

Các lò gốm 10 thế kỷ đầu Công nguyên ở miền Bắc Việt Nam đã kết hợp được truyền thống gốm Đông Sơn với kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến đương thời của Trung Hoa đã sản xuất ra dòng gốm Việt – Hán mang sắc thái bản địa bên cạnh dòng gốm Đông Sơn tồn tại trong các làng Việt cổ. Các khu lò gốm được khảo cổ học phát hiện chắc chắn chỉ là phần nào của những lò gốm đã từng tồn tại ở giai đoạn này, nhưng chỉ chừng đó cũng đã cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển nhất trong việc sản xuất đồ gốm tiên tiến đương thời.

Nguồn tin: Tạp chí cổ vật; Ảnh: Tác giả

Những biến chuyển về kinh tế – xã hội – văn hóa dưới thời Bắc thuộc

1. Kinh tế
Công cụ bằng sắt ngày càng phổ biến thay thế công cụ sản xuất bằng đồng.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù chính quyền đô hộ nắm độc quyền về sắt, kiểm soát chặt chẽ việc khai thác, chế tạo và mua bán đồ sắt nhưng nhân dân ta vẫn rèn đúc, chế tạo nhiều công cụ bằng sắt phục vụ cho nhu cầu sản xuất và cuộc sống.

Đồ sắt được sử dụng ngày càng nhiều vào sản xuất, lấn dần các nông cụ bằng đồng, mặc dù công nghệ đúc đồng vẫn tiếp tục tồn tại và giữ một vị trí nhất định trong việc chế tạo đồ dùng trong sinh hoạt. Trong các mộ cổ thuộc thời kỳ Bắc thuộc có rất ít vũ khí, công cụ bằng đồng. Nhiều vật dụng trong gia đình cũng được chế tạo bằng sắt như kiềng nấu bếp, đèn, đỉnh. Việc nhà Hán đặt chức thiết quan trong coi việc thu thuế sắt đã chứng tỏ từ đầu công nguyên trở về sau cư dân Việt cổ đã bước vào thời đại đồ sắt phát triển.

Quá trình giao lưu và ảnh hưởng kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng được mở rộng trong thời kỳ Bắc thuộc với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc, Ấn Độ đã góp phần thúc đẩy kỹ thuật luyện sắt và chế tạo đồ sắt ngày càng tiến triển.

Thủ công nghiệp
Kỹ thuật rèn sắt phát triển hơn trước. Công cụ sắt có nhiều loại đa dạng như rìa, mai, cuốc, dao, vũ khí, đèn, đinh và một số đồ dùng trong sinh hoạt gia đình.

Nghề đúc đồng vẫn được tiếp tục nhưng chủ yếu để chế tạo các đồ dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân như nồi, niêu, lư hương, đồ trang sức.

Nghề làm đồ gốm phát triển, nhiều loại đồ dùng trong nhà như nồi đất, vò, bình, bát, đĩa, đèn,… được sản xuất ngày càng nhiều.

Bên cạnh gốm trơn (thường) (gốm thô), còn có gốm tráng men. Gạch, ngói cũng có nhiều loại khác nhau như gạch thường, gạch hình múi bưởi để xây vòm cuốn, ngói bản, ngói ống,…?

Việc khai thác vàng, bạc, ngọc trong nhân dân cũng được đẩy mạnh, nhiều kiểu loại đồ trang sức bằng vàng, bạc, ngọc được gia công tinh tế như vòng tay, nhẫn, trâm, lược, hoa tai,… chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của tầng lớp thống trị và quý tộc.

Nghề làm giấy, nghề mộc đóng thuyền, nghề xây dựng chùa chiền, đền đài, lăng mộ cũng khá phát triển

2. Về xã hội

Trước khi bị các triều đại phương Bắc xâm lược và đô hộ, xã hội Âu Lạc đã có sự phân hóa đẳng cấp giữa tầng lớp quý tộc và nhân dân công xã, đã có sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo, là một trong những cơ sở kinh tế – xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc vào khoảng thế kỷ VI – II TCN.

Khi bị các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược thì nhà nước Việt cổ với thiết chế xã hội là chế độ lạc tướng đã bị xóa bỏ và đã hình thành một tầng lớp địa chủ ít nhiều có thế lực ở địa phương thuộc nhiều nguồn gốc và xu hướng khác nhau.

3. Về văn hóa

Trên cơ sở một nền văn hóa bản địa vững chắc, kết tinh bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống của người Việt cổ với ý thức hệ cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quý, gắn bó với quê hương, đất nước, tổ tông mà các thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc đã xây dựng nên, bởi vậy, dù cho các triều đại phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc ta, nhằm thủ tiêu nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, nhưng kết cục trước cuộc đấu tranh mãnh liệt của nhân dân ta, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đó vẫn giữ được vị trí chủ thể và có tác dụng Việt hóa những yếu tố văn hóa ngoại nhập. Những yếu tố văn hóa từ bên ngoài đều thông qua chủ thể văn hóa Việt Nam mà phát huy tác dụng và làm phong phú thêm nền văn hóa cổ truyền.

Chính quyền phong kiến phương Bắc với 3 chính sách nhằm đồng hóa nước ta

Thời Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, trải qua các triều đại: Triệu, Hán (Tây Hán và Đông Hán), Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường kế tiếp nhau xâm chiếm và đô hộ, biến Âu Lạc thành quận, huyện, đồng hóa dân tộc, bóc lột tàn tệ và triệt để nhân dân ta.

  1. Tổ chức cai trị

Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà chia Âu Lạc thành hai quận: Giao Chỉ (bao gồm vùng Bắc Bộ ngày nay) và Cửu Chân (gồm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), sáp nhập vào nước Nam Việt.

Năm 111 TCN, nhà Hán đánh chiếm Nam Việt và chia nước ta thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.

Nhà Hán vẫn duy trì phương thức cai trị: Dùng người Việt trị người Việt của nhà Triệu.

Sau nhà Hán là các triều đại Ngô, Ngụy, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường cùng với việc thay đổi các đơn vị hành chính là việc tổ chức chặt chẽ hơn bộ máy thống trị của chính quyền đô hộ. Tuy nhiên, việc thiết lập chính quyền đô hộ vẫn chỉ nằm ở các phủ, châu, chưa xuống tới các làng, xã.

  1. Vơ vét, bóc lột tàn bạo nhân dân bản xứ

Dựa vào một tổ chức quan lại, quân đội tương đối chặt chẽ và khá mạnh, chính quyền đô hộ đã ra sức bóc lột và đàn áp nhân dân các châu, quận. Chúng ra sức chiếm đất xây dựng cơ sở kinh tế riêng, thực hiện chính sách đồn điền nhằm giữ đất đai mới chiếm được của nhân dân ta.

Chúng bắt nhân dân ta phải cống nạp, nộp tô thuế và chịu lao dịch cho chính quyền đô hộ. Ngoài ra chúng còn nắm độc quyền sản xuất và mua bán muối và sắt, để bắt nhân dân ta nộp thuế và lệ thuộc chặt chẽ vào chính quyền đô hộ của chúng.

  1. Đồng hóa dân tộc, khủng bố và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta

Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng, tinh thần, ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào nước ta. Tiếng Hán và chữ Hán cũng được chính quyền đô hộ phổ biến ở Giao Châu nhằm làm công cụ thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán.

Bên cạnh đó chúng còn đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục tập quán theo người Hán.

                                     

3 tôn giáo du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc

Trên cơ sở một nền văn hóa bản địa vững chắc, kết tinh bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống của người Việt cổ với ý thức hệ cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quý, gắn bó với quê hương, đất nước, tổ tông mà các thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc đã xây dựng nên, bởi vậy, dù cho các triều đại phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc ta, nhằm thủ tiêu nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, nhưng kết cục trước cuộc đấu tranh mãnh liệt của nhân dân ta, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đó vẫn giữ được vị trí chủ thể và có tác dụng Việt hóa những yếu tố văn hóa ngoại nhập. Những yếu tố văn hóa từ bên ngoài đều thông qua chủ thể văn hóa Việt Nam mà phát huy tác dụng và làm phong phú thêm nền văn hóa cổ truyền.

Nho giáo là sự tổng hợp những tư tưởng, triết lý, luân lý, đạo đức và thể chế cai trị ở Trung Quốc có từ thế kỷ VI – V Tr.CN do Khổng Tử và các học trò của ông xây dựng và về sau được phát triển, ổn định trong Tứ thư: Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử và Ngũ kinh: Thi, thư, dịch, lễ, xuân thu. Với tam cương: đạo vua – tôi, đạo cha – con, đạo vợ – chồng và ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, Nho giáo chủ trương tôn trọng và bảo vệ chế độ đẳng cấp, trật tự xã hội bóc lột, trung thành tuyệt đối với nhà vua – hoàng đế Trung Hoa. Với mục đích đồng hóa dân tộc ta, nhà nước phong kiến Trung Hoa đã sử dụng chữ Hán và Nho giáo như một công cụ để thực hiện, tuy nhiên, sau một thời gian dài, tôn giáo này vẫn chỉ dừng lại ở tầng lớp trên của xã hội, chưa thể xâm nhập vào xóm, làng của người Việt.

Đạo giáo là một tôn giáo, tín ngưỡng ở Trung Quốc, là một hỗn hợp nhiều thứ mê tín dị đoan và phương thuật như đoán mộng, xem sao, đồng cốt, chữa bệnh bằng phù phép, bói toán,… được hệ thống hóa bởi một hệ thống thần điện, đạo tạng, đền miếu. Đạo giáo khi du nhập vào nước ta đã hòa quyện với tín ngưỡng dân gian Việt cổ.

Phật giáo ra đời từ thế kỷ VI Tr.CN ở Ấn Độ, do Thích Ca Mâu Ly sáng lập. Lúc mới ra đời, đạo Phật có nội dung tích cực trong cuộc đấu tranh chống chế độ đẳng cấp khắc nghiệt ở Ấn Độ, được đông đảo nhân dân bị trị hưởng ứng. Về sau đạo Phật bị giai cấp thống trị lợi dụng và biến nó thành một tôn giáo chính thống của nhà nước. Những mặc tích cực của Phật giáo như chủ trương bình đẳng, bác ái, vị tha, làm điều lành, chống điều ác,… bị giai cấp thống trị cắt xén, xuyên tạc, phát triển mặt tiêu cực để làm công cụ đàn áp, thống trị nhân dân lao động. Tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ có những nét phù hợp với học thuyết của đạo Phật như kêu gọi mọi người làm điều nghĩa, có lòng nhân ái vị tha, thuyết nhân quả nghiệp báo, nên được đông đảo nhân dân hưởng ứng.