Archive | Tháng 5 2017

Bí mật về loại tiền đặc biệt thời vua Tự Đức

Trong số những loại tiền được đúc dưới thời vua Tự Đức triều Nguyễn, có một loại tiền rất đặc biệt. Tuy nhiên, điều đặc biệt này không phải ở chất liệu kim loại dùng để đúc tiền, không phải theo khuôn mẫu, hình thức mới… mà khác lạ ở chính tên gọi của nó.
Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), giống như các triều vua trước đó, ông cũng cho đúc tiền mang niên hiệu của mình, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ viết: “Tự Đức năm đầu, dụ rằng: Đúc tiền theo niên hiệu mới. Vậy cho theo thể lệ đúc tiền Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị mà đúc tiền hiệu mới là Tự Đức thông bảo, tiền đồng hạng lớn, mỗi đồng nặng 9 phân, tiền đồng hạng nhỏ và tiền kẽm đều mỗi đồng tiền nặng 6 phân”.
Trong thời gian trị vì Tự Đức đã nhiều lần cho đúc đồng “Tự Đức thông bảo”, đồng tiền này có nhiều dạng khác nhau, có đồng ở mặt sau ghi giá trị ấn định của đồng tiền như chữ “lục văn”, để chỉ đồng tiền này ăn sáu đồng tiền kẽm; hoặc các chữ “thất văn”, “lục văn”… Ngoài ra, còn có những loại tiền kẽm được đúc lần đầu vào năm Kỷ Tỵ (1869) đường kính nhỏ, có loại mặt sau để trơn, có loại mặt sau của tiền ghi nơi đúc như: Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên…

Chân dung vua Tự Đức

Tuy nhiên loại tiền đặc biệt của vua Tự Đức được đúc vào tháng 2 năm Tân Dậu (1861), loại tiền này gọi là “Tự Đức bảo sao” có 8 loại, đây là loại tiền đúc để cho người dân tiện lợi mang theo khi đi đường. Cụ thể mặt sau của các đồng này có ghi: 1. Chuẩn thập văn (ăn 10 đồng tiền kẽm), 2. Chuẩn nhất thập văn (ăn 10 đồng tiền kẽm), 3. Chuẩn nhị thập văn (ăn 20 đồng tiền kẽm), 4. Chuẩn tam thập văn (ăn 30 đồng tiền kẽm), 5. Chuẩn tứ thập văn (ăn 40 đồng tiền kẽm), 6. Chuẩn ngũ thập văn (ăn 50 đồng tiền kẽm), 7. Chuẩn lục thập văn (ăn 60 đồng tiền kẽm), 8. Chuẩn đương nhị bách (ăn 200 đồng tiền kẽm).
Các loại tiền chủ yếu được đúc bằng chất liệu đồng, chính bởi vậy mà dần dần “đồng” trở thành tên gọi đơn vị tiền tệ của nước ta cho đến tận ngày nay.
Không rõ lý do gì mà Tự Đức lại đặt tên loại tiền thứ 2 của ông là “Tự Đức bảo sao”, đồng tiền này cũng là đồng tiền kim loại nhưng chữ “sao” lại chỉ dùng để gọi tiền giấy. Từ đời vua Trần Thuận Tông, theo chủ trương của Hồ Quý Ly đã cho in tiền giấy gọi là “Hội sao thông bảo”, tiền này được dùng cho đến khi triều nhà Hồ sụp đổ. Theo Phan Huy Chú viết trong sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: “Giấy sao chỉ là miếng giấy vuông chừng một thước, chỉ đáng giá 5-3 đồng tiền mà đem đổi lấy những vật giá 5-6 trăm đồng của người ta, đã không hợp lý mà lại làm người ta cất giữ, dễ rách nát”.


Đồng tiền Tự Đức bảo sao – Chuẩn tứ thập văn

Như vậy “sao” là cách gọi loại tiền giấy, vậy mà “Tự Đức bảo sao” là tiền đồng chứ không phải là tiền giấy, dù gọi là “sao”. Sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn viết về tiền này như sau: “Đúc sáu hạng tiền đồng, từ hạng tiền một đồng ăn 10 đồng đến hạng tiền một đồng ăn 60 đồng. Mặt đồng tiền khắc bốn chữ Tự Đức bảo sao. Hạng ăn 10 đồng nặng 1 đồng cân 5 phân, hạng ăn 20 đồng nặng 3 đồng cân, hạng ăn 30 đồng nặng 4 đồng cân 5 phân, hạng ăn 40 đồng nặng 6 đồng cân, hạng ăn 50 đồng nặng 7 đồng cân 5 phân, hàng ăn 60 đồng nặng 9 đồng cân”.
Tiền “Tự Đức bảo sao” được đúc nhiều lần ở những năm khác nhau, sách Đại Nam thực lục còn cho biết đồng tiền bảo sao này được đúc nhiều nhất là đồng mặt sau có chữ Chuẩn lục thập văn, một đồng này ngang với 60 đồng tiền kẽm (vừa đúng 1 tiền), thông hành trong dân gian rất tiện lợi nên được đúc nhiều.
Đồng tiền có tên gọi lạ lùng này của vua Tự Đức không chỉ gây ngạc nhiên cho giới nghiên cứu, sưu tầm tiền cổ trong nước mà ngay đến cả người nước ngoài cũng phài ngạc nhiên, tò mò. Một nhà nghiên cứu Tây phương là ông Henry A. Ramsden (1872-1915) trong một tập san viết về tiền tệ đã nói rằng tiền bảo sao của vua Tự Đức là “thứ tiền duy nhất của An Nam bằng kim loại được đúc để tượng trưng cho tiền giấy”.
Ngoài những loại tiền nói trên, Tự Đức còn cho đúc tiền mang niên hiệu của mình bằng chất liệu vàng và bạc, mặt trước vẫn có dòng chữ “Tự Đức thông bảo”, mặt sau mang nhiều hình vẽ, họa tiết khác nhau như hình 5 con dơi (biểu tượng của Ngũ phúc), hình rồng bay (gọi là tiền phi long), hình ba cây: mai, tùng, trúc (biểu tượng của Tam thọ), thậm chí có loại gọi là tiền Vạn thế vĩnh lại khắc cả bài thơ 20 chữ trên lưng tiền…

Nguồn: Kienthuc.net.vn

Tiền cổ Việt Nam trong lịch sử đại cổ tiền đồ thuyết

Từ xưa đến nay đã có nhiều tác giả bàn về tiền cổ như Lê Quý Đôn ở mục Phẩm vật trong sách Vân đài loại ngữ, Phan Huy Chú trong Quốc dũng chí sách Lịch triền hiến chương loại chí; Đỗ Văn Ninh trong Tiền cổ Việt Nam; Nguyễn Anh Huy nghiên cứu tiền cổ các đời; Đinh Công Vĩ nghiên cứu tiền cổ Việt Nam qua các niên đại (năm con giáp v.v…). Gần đây chúng tôi lại sưu tầm được cuốn Lịch đại cổ tiền đồ thuyết do Đinh Phúc Bảo biên soạn và Đái Bảo Bình tham gia giám định, xuất bản năm 1940 tại thư điếm Thượng Hải – Trung Quốc.

Trong lời thuyết minh bản chụp in lại cuốn sách này ghi rằng: Bản Lịch đại cổ tiền đồ thuyết do Đinh Phúc Bảo biên soạn và Đái Bảo Bình tham gia giám định, xuất bản năm 1940, cách ngày nay đã hơn 40 năm. Ba, bốn mươi năm nay phần lớn tiền cổ khai quật lên, các tác giả nghiên cứu tiền cổ phát biểu rất nhiều, nhưng bản Đồ thuyết này vẫn là quyển sách công cụ có giá trị đối với những người sưu tầm cổ vật, những người nghiên cứu tiền tệ, những người thu thập cất giữ và yêu quý tiền cổ.

Quyển sách này tổng cộng thu thập được 3131 loại tiền cổ và liệt kê theo thứ tự lịch sử, tiền cổ phát hành qua các triều đại từ thời Tần đến nay đều được sưu tầm đầy đủ, có một số trường hợp còn liệt kê các tiêu bản khác nhau, so với bản Cổ tiền đồ phả được in ấn trước đây thì nhiều hơn hẳn. Do các nguyên nhân hạn chế của thời đại v.v.. nên trong đó cũng có lẫn một số sản phẩm giả, nhưng không ảnh hưởng gì đến giá trị quyển sách.

Những hình ảnh trong quyển sách này đều dùng các bản dập tiền cổ để in, có loại tiền gốc đã không tồn tại, nhưng từ thấy những hình dáng và thần thái của các đồng tiền qua các bản dập thì đã thể hiện được rõ về tiền cổ. Đối với việc đúc tiền, năm phát hành và chủng loại đều có phần tóm tắt thuyết minh có thể làm tài liệu tham khảo về lịch sử sơ lược của tiền tệ.

Các loại tiền cổ được ghi chú rõ giá trị thị trường đương thời, sau khi quyển sách được xuất bản thì đã có sự thay đổi rất nhiều, không thích hợp với hiện nay nữa. Nhưng nó phản ảnh tình hình chung các loại tiền cổ đương thời còn được lưu hành ít hay nhiều nên đối với các nhà nghiên cứu vẫn có giá trị nhất định.

Quyển sách này đương thời được in ấn không nhiều, hiện nay đã rất khó sưu tầm. Để đáp ứng đầy đủ yêu cầu cần bức thiết của độc giả chúng tôi xin chụp nguyên bản để phát hành.

Ấn hành vào tháng 12 năm 1985 tại nhà sách Thượng Hải. Quyển Lịch đại cổ tiền đồ thuyết đề cập đến tiền cổ của rất nhiều nước như Triều Tiên (Lưu Cầu), Nhật Bản, An Nam (Việt Nam), v.v. Ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu về phần tiền cổ Việt Nam. Cụ thể như sau:

Phần 20: An Nam (Việt Nam)

– Thái Bình Hưng Bảo, lưng có chữ Đinh. Đại Việt sử ký ghi Đinh Bộ Lĩnh nước An Nam (Việt Nam) dựng nước vào đầu năm Tống Khai Bảo đến năm thứ ba thì đổi niên hiệu là Thái Bình hiệu là Đinh Triều, trên mặt tiền là Thái Bình, sau lưng tiền là chữ Đinh, Quốc hiệu:

+ Thái Bình Hưng Quốc

+ Thiên Phúc Trấn Bảo

Lưng tiền đúc chữ Lê, Đại Việt sử ký ghi rằng năm Thiên Phúc thứ năm đời Lê Hoàn nước An Nam (tức năm đầu Tống Ung Hy) đúc tiền Thiên Phúc Trấn Bảo, lưng tiền là chữ Lê cũng là quốc hiệu.

xu cổ việt nam

– Thiên Phúc Trấn Bảo.

– Minh Đạo Nguyên Bảo: Đại Việt sử ký chép rằng: tháng 10 năm Càn Phù Hữu Đạo thứ tư đời Lý Thái Tông nước An Nam xuống chiếu đổi niên hiệu là Minh Đạo thứ nhất. Đúc tiền Minh Đạo, xét loại tiền này với tiền Minh Đạo Bắc Tống hoàn toàn không giống nhau.

– Thiên Cảm Nguyên Bảo: khoảng năm Thiên Cảm Thánh Vũ đời Lý Thái Tông vâng theo mệnh lệnh của Cần Vương Lý Nhật Trung đúc tiền, trên mặt tiền có chữ “tuyến độc”, mặt sau không có chữ và có hai chữ Cần Vương (theo Đông Á tiền chí).

– Thiên Cảm Nguyên Bảo. Năm Kiến Trung đời Trần Thái Tông đúc loại tiền loại nhỏ lưng tiền không có chữ, tiền này lưu truyền ở đời rất ít (theo Đông Á tiền chí).

– Chính Bình Thông Bảo: ®úc năm Thiên Ứng Chính Bình đời Trần Thái Tông. Hình dạng của tiền đó với tiền Kiến Trung Thông Bảo trước đây gần gần giống nhau (theo Đông Á tiền chí).

– Nguyên Phong Thông Bảo: ®úc năm Nguyên Phong đời Trần Thái Tông.

– Thiệu Phong Thông Bảo: ®úc năm Thiệu Phong đời Trần Thái Tông, tiền đồng sắc đen nhạt, mỏng hiện tại còn rất ít.

– Khai thái Nguyên Bảo: ®úc năm Khai Thái đời Trần Nhân Tông, lưng tiền không có chữ cũng có chữ Trần ghi tên Quốc Hiệu.

– Thiệu Phong Nguyên Bảo: ®úc năm Thiệu Phong đời Trần Dụ Tông, mặt tiền có chữ Chân thư, Hành thư, tạp thư v.v. (theo Đông Á tiền chí).

– Đại Trị Thông Bảo: Đại Việt sử ký chép rằng tháng hai mùa xuân năm Đại Trị thứ 3 đời Trần Dụ Tông đúc tiền Đại Trị Thông Bảo có nhiều loại, các loại có chữ Chân thư, Hành thư, Lệ thư, Thảo thư v.v…

– Đại Trị Nguyên Bảo: ®úc năm Đại Trị đời Trần Dụ Tông, có chữ Chân thư, Hành thư, tạp thư v.v…

– Thi Nguyên Thông Bảo: ®úc năm Bổ hy nhà Nguyễn.

– Đại Định Thông Bảo: ®úc năm Đại Định đời phế đế Nhật Lệ, dạng tiền này cùng với tiền của Đại Định nhà Kim không giống nhau.

– Cảnh Nguyên Thông Bảo: tiền của Tống Nguyên Thông Bảo và tiền Cảnh Nguyên Thông Bảo giống tiền Thi Nguyên Thông Bảo và là tiền đúc cùng thời.

– Khánh Nguyên Thông Bảo: đúc năm Thánh Nguyên thứ nhất thời Đại Ngu Đế Quý Ly, màu sắc nhạt hình to và hiện lưu truyền ở đời rất ít.

– Thiên Khánh Thông Bảo: đúc năm Thiên Khánh thứ nhất đời vua Trần Cảo nước An Nam (theo sách Đông Á tiền chí)

tiền cổ việt nam thời hán

– Thánh Nguyên Thông Bảo: đúc năm Thánh Nguyên thứ nhất đời Đại Ngu Đế Quý Ly, màu sắc nhạt hình thì lớn lưu truyền ở đời rất ít.

– Thuận Thiên Nguyên Bảo: Đại Việt sử ký chép đầu niên hiệu Thuận Thiên đời Lê Thái Tổ, đúc tiền Thuận Thiên Nguyên Bảo

– Thuận Thiên Đại Bảo: Đại Việt sử ký chép năm đầu niên hiệu Thuận Thiên đời Lê Thái Tổ từ tháng tư đến tháng 12 nhuận đều đúc tiền Thuận Thiên Đại Bảo.

– Thiệu Bình Thông Bảo: Đại Việt sử ký chép Thiệu Bình năm đầu thời Lê Thái Tông ngày mồng 4 tháng 9 ban đúc tiền mới Thiệu Bình.

– Đại Bảo Thông Bảo: khoảng năm Đại Bảo đời Lê Thánh Tông đúc tiền Đại Bảo Thông Bảo (theo Đông Átiền chí).

– Đại Bảo Thông Bảo: khoảng năm Đại Hòa đời Lê Nhân Tông đúc tiền Đại Hòa Thông Bảo (theo Đông Á tiền chí).

– Diên Ninh Thông Bảo: Đại Việt sử ký chép rằng năm Diên Ninh thứ nhất đời Lê Nhân Tông vào mùa xuân tháng giêng đúc tiền Diên Ninh Thông Bảo.

– Thiên Hưng Thông Bảo: khoảng năm Thiên Hưng đời Lê Phế Đế Nghi Dân đúc tiền Thiên Hưng Thông Bảo (theo Đông Á tiền chí).

tiền cổ, xu lỗ vuông

– Quang Thuận Thông Bảo: đúc khoảng năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông

– Hồng Đức Thông Bảo: khoảng năm Hồng Đức thứ nhất đời Lê Thánh Tông đúc tiền Hồng Đức Thông Bảo.

– Cảnh Thống Thông Bảo: đúc khoảng năm Cảnh Thống thứ nhất đời Lê Thánh Tông.

– Đoan Khánh Thông Bảo: đúc khoảng năm Đoan Khánh đời vua Lê Uy Mục

– Hồng Thuận Thông Bảo: đúc khoảng năm Hồng Thuận đời Lê, đúc tiền Hồng Thuận Thông Bảo.

– Quang Thiệu Thông Bảo: đúc khoảng năm Quang Thiệu đời vua Lê Chiêu Tông, đúc tiền Quang Thiệu Thông Bảo.

– Trần Công Tân Bảo: năm Hồng Thuận thứ ba đời Lê. Cũng khoảng năm Thiên Ứng Trần Cảo đúc tiền mặt tiền mặt tiền bằng chữ triện, sau lưng không có chữ.

– Tuyên Hòa Hữu Bảo: khoảng năm Tuyên Hòa đời Trần Cảo đúc tiền Tuyên Hóa Hữu Bảo.

– Minh Đức Thông Bảo: khoảng năm Minh Đức đời Mạc Thái Tổ đúc tiền Minh Đức Thông Bảo, bề mặt chữ đọc đối nhau lưng không có chữ.

– Đại Chính Thông Bảo: khoảng năm Đại Chính đời Mạc Thái Tông đúc tiền Đại Chính Thông Bảo.

– Quảng Hòa Thông Bảo: ®úc khoảng năm Khánh Hòa đời Mạc Phúc Hải.

– Vĩnh Định Thông Bảo: khoảng năm Vĩnh Định đời Mạc Phúc Nguyên đúc tiền Vĩnh Định Thông Bảo so với tiền đúc chân lạc thì màu sắc cũng tương tự, hình dáng thì mỏng, nhỏ.

– Quang Bảo Thông Bảo: ®úc khoảng năm Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên.

– Sùng Minh Thông Bảo: ba loại tiền Nguyên Chính Thông Bảo, Khai Tiến Thông Bảo, Sùng Minh Thông Bảo đúc không khác mấy so với tiền Vĩnh Định Thông Bảo là đồng tiền thời Mạc Phúc Nguyên là không phải nghi ngờ gì nữa.

– Nguyên Hòa Thông Bảo: khoảng năm Nguyên Hòa đời Đại Việt Tráng Đế đúc tiền Nguyên Hòa Thông Bảo trên mặt là chữ Triện đọc đối nhau.

– Gia Thái Thông Bảo: khoảng năm Gia Thái Đại Việt Thế Tông đúc tiền Gia Thái Thông Bảo, chất tiền khác so với tiền Gia Thái Thông Bảo đời Nam Tống.

– Vĩnh Thọ Thông Bảo: khoảng năm Vĩnh Thọ đời Lê Thần Tông đúc tiền này. Chất đồng có hai loại xanh và đỏ chữ trên mặt tiền có hai thể, thể chân và thể hành.

– Vĩnh Thịnh Thông Bảo: đúc năm Vĩnh Thịnh đời Lê Dụ Tông, lưng tiền có chữ Tỵ.

– Bảo Thái Thông Bảo: đúc năm Bảo Thái đời Lê Dụ Tông, chất màu đỏ, đúc thô sơ.

– Cảnh Hưng Thông Bảo: khoảng năm Cảnh Hưng đời Lê Hiến Tông đúc tiền này ở Bắc Kỳ. Có ba loại Chân thư, Lệ thư và Thiện thư. Loại Chân thư lưng có chữ Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Sơn Tây, Sơn Nam, Kính Trung, Tây Thái Công v.v.

– Cảnh Hưng Thông Bảo.

– Cảnh Hưng Nội Bảo.

– Cảnh Hưng Cực Bảo: ®úc năm Cảnh Hưng thứ ba (theo Đông Á tiền chí)

– Cảnh Hưng Chí Bảo.

– Cảnh Hưng Trung Bảo

– Cảnh Hưng Chính Bảo

– Cảnh Hưng Vĩnh Bảo.

Trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết rằng: tháng Giêng mùa xuân năm Cảnh Hưng thứ hai ba đặt chức quan Giám đốc lò đúc tiền rồi mới đặt quan giám đốc. Các lò đúc tiền Nhật chiêu mặc cáo và các lò đúc tiền Sơn Tây, Thái Nguyên đều có ghi riêng biệt để phòng lạm phát.

– Cảnh Hưng Thuận Bảo: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, khoảng tháng Giêng năm Cảnh Hưng ba mươi bảy. Lò đúc tiền Thuận Hóa đã đem đồng để đúc tiền Cảnh Hưng Thuận Bảo gồm hơn bao vạn dân.

– Chiêu Thống Thông Bảo: trong Khâm Định duyệt sử thông giám cương mục ghi rằng: Vào tháng ba năm Chiêu Thống thứ nhất đời Lê Mẫn Đế. Nguyễn Hữu Chỉnh tâu xin vận chuyển tất các tượng đồng ở các chùa quan để đúc tiền Chiêu Thống Thông Bảo lưng có các chữ Trung, nhất, chính, sơn, thái, sơn nam v.v…

– Thái Bình Thông Bảo: tiền đúc đời Thuận Hóa Thái tổ Nguyễn Hoàng lưng có tinh văn và nhất nhất lại có bánh xe Thái Đô sắt đồng cũng mờ mờ đúc thô sơ (theo Đông Á tiền chí).

– Thiên Minh Thông Bảo: loại tiền kẽm (chì) đúc thời Thế Tông ở Thuận Hóa…

– An Pháp Nguyên Bảo: năm Bính Thìn thứ hai mươi mốt đời Túc Tông Phúc Phong ở Thuận Hóa, từ đó về sau Đô đốc Trấn Hà Tiên là Đăng Thiên Tứ đúc ở trấn Hà Tiên.

– Thái Đức Thông Bảo: năm Thái Đức triều Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đúc tiền này bằng đồng sắt màu đỏ, màu đen, màu vàng và màu trắng v.v.. lưng có chữ tinh nguyệt lại có hai chữ thảo thư vạn tuế là Thái Đức năm thứ mười bốn Nguyễn Văn Nhạc về thành Quy Nhơn tức là lên ngôi ở Trung ương Hoàng Đế đúc tiền Thái Đức Thông Bảo.

– Minh Đức Thông Bảo: đúc hình dạng và kích thước chữ cũng như Thái Đức Thông Bảo có hai chữ Vạn Tuế bằng chữ Thảo tương tự. Loại tiền cùng thời là không còn nghi ngờ gì nữa. Hai chữ Minh Đức là lời khen chứ không phải là niên hiệu. Sau lưng có hai chữ vạn tuế bằng chữ Thảo. Không giống tên Minh Đức của Mạc Đăng Dung.

– Quang Trung Thông Bảo: đúc năm Quang Trung Nguyễn Văn Huệ. Màu sắc đỏ, vàng tuyền, mỏng như giấy, lớn nhỏ không giống nhau, chữ ở trên tiền nhỏ sau lưng không có chữ lại có hai chữ An Nam. Ở sau lưng có chữ Trọng luân.

– Quang Trung Đại Bảo: cũng đúc năm Quang Trung Nguyễn Văn Huệ đồng vàng mỏng, chữ Bảo (寶) là chữ Bảo.

– Cảnh Thịnh Thông Bảo: đúc năm Cảnh Thịnh đời Nguyễn Quang Toản đúc bằng đồng màu thuần vàng mỏng, lớn nhỏ không giống nhau. Lưng phần nhiều không có chữ, trước mặt và sau lưng đều.

– Cảnh Thịnh Đại Bảo: đúc năm Cảnh Thịnh đời Nguyễn Văn Toản, hình dạng cũng giống tiền Quang Trung Đại Bảo.

Bảo Hưng Thông Bảo: đúc năm Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản, đúc thô sơ, mỏng sau lưng không có văn, tương truyền là rất ít, không tương truyền ở đời (theo Đông Á tiền chí).

– Gia Long Thông Bảo: Đại Nam thực lục chính biên chép rằng tháng sáu năm Gia Long thứ 2 đời thế tổ Gia Long đúc tiền Gia Long Thông Bảo. Có hai loại tiền đồng và tiền kẽm. Sau lưng có chữ triện sáu phân, chữ Khải bảy phân.

– Gia Long Thông Bảo.

– Minh Mệnh Thông Bảo: Đại Nam thực lục chính biên chép rằng, tháng hai năm Minh Mệnh thứ nhất đời Thánh Tổ đầu tiên đúc tiền Minh Mệnh Thông Bảo sáu phân tiền đồng và tiền kẽm (chì) lại đúc tiền đồng loại lớn. Đông Á tiền chí chép rằng: năm Minh Mệnh thứ 18 thì đúc tiền ở phủ Thuận Hóa một tương đương với một trăm, lưng đúc những lời trong kinh truyện Nam Mỹ hiệu có tám chữ, hai mươi ba loại, bốn chữ có mười bảy loại: Xuyên chí sơn tăng, lời dụ hậu sinh, như sơn như xuyên, như cương như phụ, kỳ ngọc kim chương, kỳ trác tạo tương, thánh mô dương dương, vương đạo thang thang v.v…

– Nguyên Trị Thông Bảo: Trị Nguyên Thông Bảo khoảng năm Trị Nguyên thứ nhất đời Lê Văn Ngỗi (theo Đông Á tiền chí).

– Nguyên Long Thông Bảo: đúc năm Nguyên Long đời Ngụy Văn Vân, đúc mỏng nhỏ sau lưng không có chữ cũng có đúc chữ xương và chữ trong (theo Đông Á tiền chí).

– Thiệu Trị Thông Bảo: Đại Nam thực lục chính biên chép rằng tháng ba năm Thiệu Trị thứ nhất đời Hiến Tổ đúc tiền Thiệu Trị Thông bảo nhỏ, nhẵn có hai loại tiền đồng và tiền kẽm, lưng có hai chữ Hà Nội lại có loại tiền đồng lớn hình dạng giống tiền lớn Minh Mệnh Thông Bảo, chữ ở lưng cũng có bốn mươi loại.

– Thọ Hiếu Niên

– Tự Đức Thông Bảo

– Sử Dân Phú Thọ

– Tự Đức Thông Bảo

Đại Nam thực lục chính biên chép rằng tháng hai năm Tự Đức thứ nhất đời Dực đế bắt đầu đúc tiền Tự Đức bằng đồng, lưng có sáu văn hai chữ, tiền kẽm lưng có chữ Sơn Tây, Hà Nội v.v… lại có loại tiền đồng lớn giống tiền đồng Minh Mệnh Thông Bảo lưng cũng có vân bốn mươi loại.

tiền cổ số lượng lớn được tìm thấy

– Tự Đức Bảo Sao: đúc năm Tự Đức thứ 18 đời Dực Đế lưng ghi chữ trị từ 18 văn đến 60 văn. Phàm lục Phẩm theo thứ tự kém sáu văn (theo Đông Á tiền chí).

– Kiến Phúc Thông Bảo: Khoảng năm Kiến Phúc đời Giảm Tông trong cung Thuận Hóa Bảo đúc thử tiền ở phủ Hà Nộii có hai loại tiền đồng và tiền kẽm (theo Đông Á tiền chí).

– Hàm Nghi Thông Bảo: đúc năm Hàm Nghi đời vua Hàm Nghi lưng tiền không có chữ, cũng có hai chữ Lục Văn (theo Đông Á tiền chí)

– Đồng Khánh Thông Bảo: Đại Nam thực lục chính biên chép rằng vào tháng tư năm Đồng Khánh thứ nhất đời Cảnh Tông, đúc tiền Đồng Khánh Thông Bảo có hai loại.

– Thành Thái Thông Bảo: đúc năm Thành Thái đời vua Thành Thái năm đầu có hai loại lớn nhỏ lưng có chữ Lục Văn và Thập Văn (theo Đông Á tiền chí).

– Duy Tân Thông Bảo: đúc năm Duy Tân đời vua Duy Tân có hai loại lớn nhỏ. Loại lớn sau lưng có hai chữ Thập Văn (theo Đông Á tiền chí).

– Khải Định Thông Bảo: đúc năm Khải Định đời vua Khải Định, lưng không có chữ./.

Nguồn: Thegioitien.vn

Phần 4: Tiền thưởng triều Nguyễn: Đời vua Tự Đức (1848 – 1883)

Đời vua Tự Đức có đúc loại thoi bạc hình khối hộp chữ nhật. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ Tự Đức niên tạo – Tạo tác trong niên hiệu Tự Đức, (1848 – 1883).

Lưng tiền đúc nổi 4 chữ Quán tiền nhị phân (Tiền quán 2 phân). Ngoài ra dưới đời Tự Đức còn cho đúc loại Nội thảng ngân tứ tiền (Bạc của Quốc nội 4 tiền).

Dưới đời vua Tự Đức tiền thưởng loại tròn dẹt, lỗ vuông, đúc bằng bạc và bạc mạ vàng. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ Tự Đức thông bảo, đọc chéo. (Tạo tác trong niên hiệu Tự Đức, 1848-1883).

Lưng tiền gồm các loại như sau:

– 5 hình dơi và 2 chữ Ngũ phúc. Đây là biểu tượng của ngũ phúc: Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh. LSb.34976; 34972; 35906.


– Rồng, mây (phi long). LSb.34973; 35698; VN37-3.

– Lưỡng long. LSb.35908.

– Nhất tiền viết từ.

( Một tiền viết yêu thương) – LSb.35656.


– Tứ tiền viết đễ.

(Bốn tiền viết tình anh em) – LSb.35645.

– Ngũ tiền viết nghĩa.

( Năm tiền viết đạo lí) – LSb.34965.


– Thất tiền viết huệ.

(Bảy tiền viết lòng nhân ái) – LSb.34968.


– Bát tiền viết thuận.

(Tám tiền viết thuận hòa) – LSb.34967.


Loại tiền này mặt tiền chính giữa là hình mặt trời nhiều tia hoặc diềm nhũ đinh và sóng nước hay răng cưa nhọn.

Ngoài ra còn có các đồng tiền khác đúc bằng bạc:

– Mặt tiền đúc 4 chữ Long vân khế hội, xen kẽ hình rồng mây. LSb.34979.

Bảng 3: Tiền thưởng bằng đồng đời vuaTự Đức (1848- 1883)

– Hai đồng tiền LSb.35698 và VN37-2 có mặt tiền đúc 8 chữ Tự Đức thông bảo, triệu dân lại chi ( Đồng tiền Tự Đức muôn dân được nhờ) ; lưng tiền là hình rồng mây.


Loại tiền thưởng mang mỹ hiệu đúc bằng đồng loại lớn, trong sưu tập của Bảo tàng Lịch sử quốc gia có 26 mẫu. Trong đó loại 4 chữ có 9 mẫu, loại 8 chữ có 17 mẫu.

Như vậy, mỹ hiệu trên các loại tiền thưởng trên đây đã thể hiện quan điểm trị quốc của các vua nhà Nguyễn coi trọng người dân, đòi hỏi người trị quốc phải chăm lo tới việc dạy bảo dân cùng với việc nuôi dân. Hướng giáo dục theo các quy phạm đạo đức tam cương, ngũ thường của Nho giáo, khuyên mọi người hiểu và biết đạo làm người để ứng xử các quan hệ xã hội vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em bằng hữu, thầy trò. Như vậy, nội dung của nhiều đồng tiền thưởng, không chỉ giáo dục nhân cách con người theo quy phạm đạo đức mà còn thiên về khía cạnh giáo dục chính trị đạo đức, nhằm bảo vệ và củng cố quyền lực của Vương triều.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Phần 3: Tiền thưởng triều Nguyễn: Đời vua Thiệu Trị (1841 – 1847)

Đời vua Thiệu Trị cũng đúc loại thoi bạc hình khối hộp chữ nhật, mặt tiền đúc nổi 4 chữ Thiệu Trị niên tạo, Đinh Mùi – 紹治年造 – 丁未 (Tạo tác năm Đinh Mùi trong niên hiệu Thiệu Trị, 1847). LSb 35985

Loại thoi bạc khác, mặt tiền đúc nổi 4 chữ Thiệu Trị niên tạo,Giáp Thìn – 紹治年造, – 甲辰 (Tạo tác năm Giáp Thìntrong niên hiệu Thiệu Trị, 1844), lưng tiền đúc nổi 4 chữ Quan ngân thập lượng – 官銀拾両 (Bạc quan 10 lạng), phía trên có chữ Bình Định – 平 定, chỉ rõ nơi đúc thuộc tỉnh Bình Định. LSb 35984.


Loại hình tiền tròn lỗ vuông cũng xuất hiện khá nhiều trong đời vua Thiệu Trị, chất liệu có thể là vàng, bạc, bạc mạ vàng hoặc đồng. Mặt trước cũng đúc nổi niên hiệu Thiệu Trị thông bảo – 紹治通寶 đọc chéo, hoặc là Thiệu Trị thông bảo – 紹治通寶 ở một bên, còn bên kia là một câu gồm 4 chữ hay 8 chữ hoặc hơn, là những các câu mỹ hiệu mang ý nghĩa tốt lành, may mắn như: Thiệu Trị thông bảo, triệu dân lại chi – 紹治通寶兆 民 賴 之(Đồng tiền Thiệu Trị thông bảo muôn dân được nhờ).

Mặt sau tiền có thể để trơn hay trang trí hình các con vật thiêng với các đề tài Lưỡng Long chầu nguyệt, chầu nhật, hình rồng mây, hoa lá cỏ cây… Ví dụ như đồng tiền có ký hiệu VN22-5 bằng bạc có đường kính 4,5cm, mặt trước đúc nổi 8 chữ Thiệu Trị thông bảo, triệu dân lại chi – 紹治通寶兆 民 賴 之. Mặt sau trang trí rồng mây, hay đồng tiền có ký hiệu LSb.34999 được làm bằng chất liệu bạc mạ vàng có đường kính 2,3cm, mặt trước có chữ Thiệu Trị mặt sau có chữ Tam đa – 三 多 (Ba thứ nhiều, dùng trong lời chúc tụng gồm: nhiều phúc, sống lâu và nhiều con trai). Đồng tiền có ký hiệu VN-8 hình tròn không lỗ, chất liệu bạc, có đường kính 2,4cm, mặt trước đúc nổi 4 chữ Thiệu Trị thông bảo – 紹治通寶 đọc chéo, giữa là hình mặt trời nhiều tua, mặt sau lại trang trí vân mây huyền ảo và sinh động.


Đồng tiền VN22-7 bằng bạc có đường kính 3,4cm, mặt trước đúc nổi chữ Thiệu Trị thông bảo – 紹治通寶 đọc chéo, mặt sau có các chữ Tam thọ – 三壽 và hoa văn trang trí đề tài tam hữu : tùng, trúc, mai.

Tiền đúc bằng bạc và bạc mạ vàng: Mặt tiền đúc nổi 4 chữ Thiệu Trị thông bảo – 紹治通寶 đọc chéo (Tạo tác trong niên hiệu Thiệu Trị, 1841-1847). Lưng tiền đúc nổi:

– Vạn thế vĩnh lại – 萬 世 永 賴. LSb 34982.


– Triệu dân lại chi – 兆 民 賴 之. VN22-5; VN37-1.

– Lưỡng long chầu nguyệt. LSb.34998; LSb.34996.


– Phú Thọ đa nam – 富壽多男 (Giàu có, sống lâu, nhiều con trai). LSb.34984; VN22-4; VN22-1.


– Chữ Tam đa – 三 多 và hình bình hoa, đỉnh và hộp trầm. LSb.34999.

– Chữ Tam thọ – 三壽 và hình tùng-trúc-mai. VN22-7.

– Song long, chính giữa phía trên là hình mặt trời, phía dưới là hình mây. VN22-10.

– Nhất nguyên – 一元 hai chữ ở 2 bên cạnh phải và trái của lỗ vuông, phía trên là khóm mây, phía dưới là sóng biển.

– Long vân khế hội – 龍雲契 會. Có nghĩa là hội rồng mây ví như vua hiền gặp tôi giỏi.

Tiền đúc bằng đồng đời vua Thiệu Trị có 9 mẫu mỹ hiệu, trong đó có 4 mẫu loại 4 chữ và 5 mẫu loại 8 chữ. Một số mẫu lấy theo mẫu tiền đời Minh Mệnh như: Nhất nhân hữu khánh vạn thọ vô cương – 一人有慶萬壽無疆. Thiên bất ái đạo, địa bất ái bảo – 天 不愛道地 不 愛寶.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Phần 2: Tiền thưởng triều Nguyễn: Đời vua Minh Mệnh (1820 – 1840)

Đời vua Minh Mệnh cũng đúc các loại thoi bạc, mặt tiền đúc bốn chữ Minh Mệnh niên tạo (Tạo tác trong niên hiệu Minh Mệnh), lưng tiền đúc nổi 4 chữ Quan ngân nhất tiền (Bạc quan 1 tiền) và loại Quan ngân tứ tiền (Bạc quan 4 tiền).

Đời vua Minh Mệnh bắt đầu đúc kiểu tiền hình tròn lỗ vuông bằng chất liệu vàng, bạc và đồng rất đa dạng. Mặt trước đúc nổi minh văn gồm 4 chữ Minh Mệnh thông bảo đọc chéo. Mặt sau tùy từng đồng tiền mà chúng ta thấy có trang trí hoa văn cũng như các câu mỹ hiệu 4 hay 8 chữ mang ý nghĩa là những điều chúc tốt đẹp, an bình, chúc phúc cho nhà vua và muôn dân…

Chẳng hạn như đồng tiền có số LSb.35437 bằng bạc có đường kính 2,5cm mặt trước đúc nổi niên hiệu Minh Mệnh thông bảo đọc chéo, mặt sau lại để trơn (Ảnh 5). Hay như đồng tiền có số hiệu LSb.34836 bằng vàng có đường kính 3,2cm, mặt trước đúc nổi niên hiệu Minh Mệnh thông bảo đọc chéo, mặt sau là câu mỹ hiệu gồm 4 chữ: Phú Thọ đa nam (Giàu có, sống lâu, nhiều con trai) (Ảnh 6). Hay như đồng tiền Phi long LSb.39210 bằng bạc có đường kính 4,4cm, mặt trước đúc nổi niên hiệu Minh Mệnh thông bảo đọc chéo, mặt sau trang trí rồng uốn hình chữ S, có viền răng cưa nhọn. Như chúng ta đã thấy trên loại hình tiền thưởng đời Minh Mệnh này có minh văn và họa tiết trang trí rất đa dạng, độc đáo, đôi khi rất gần gũi với đời sống thường nhật.

Vào năm Minh Mệnh 11 (1830) sách Đại Nam thực lục chép rằng “đúc tiền đồng lớn có mỹ hiệu Minh Mệnh thông bảo, 1 vạn đồng” [16, T5, 64]. “Nhà vua sai Hộ Bộ thị vệ hội đồng với đốc công Vũ khố, chiếu theo chữ hiệu và quy thức đã định mà đúc hiệu 8 chữ gồm 20 loại, hiệu 4 chữ gồm 10 loại. Đến năm Minh Mệnh 18, 1837 nhà nước cho đúc thêm loại tiền mỹ hiệu 100.000 đồng, ngoài chữ hiệu và quy thức đã định có thêm 3 hiệu 8 chữ và 7 hiệu 4 chữ” [21, T5, 18].

Tháng 6 năm Nhâm Thìn, Minh Mệnh 13, 1832 “Đúc kim tiền và ngân tiền phi long, kim tiền 1.000 đồng mỗi đồng nặng 3 phân dùng vàng lá 7 – 8 tuổi. Ngân tiền 20.000 đồng mỗi đồng nặng 7 phân dùng bạc 7 thành [21, T5, 96).

Tiền phi long thập ngũ. Loại tiền này đúc bằng bạc, mặt trước đúc nổi 4 chữ Minh Mệnh thông bảo đọc chéo (Tạo tác trong niên hiệu Minh Mệnh, 1820 – 1840). Lưng tiền đúc nổi hình rồng uốn hình chữ S, phía dưới có 2 chữ “thập ngũ ”. Đây là chữ chỉ năm thứ 15 của niên hiệu Minh Mệnh. Viền mép cả mặt tiền và lưng tiền đều có viền răng cưa nhọn. Đường kính 4,4cm, nặng 20 gram. Sử chép: “Tháng riêng năm Giáp Ngọ, Minh Mệnh thứ 15, 1834 đúc ngân tiền Minh Mệnh phi long. Sai Đường Quan bộ hộ, bộ công và 1 quản lãnh với 1 thị vệ là những người xung làm công việc Nội các thay đổi nhau đến Sở Nội tạo, coi việc đúc tiền” [17, T14, 52].

Tiền phi long thập tứ. Loại tiền này đúc bằng bạc, mặt trước đúc nổi 4 chữ Minh Mệnh thông bảo đọc chéo (Tạo tác trong niên hiệu Minh Mệnh, 1820 – 1840). Lưng tiền đúc nổi hình rồng uốn hình chữ S, phía dưới có 2 chữ “thập tứ”. Đây là chữ chỉ năm thứ 14 của niên hiệu Minh Mệnh. Sử chép:“Tháng 3 năm Quý Tỵ, Minh Mệnh 14, 1833 nhà vua sai bộ hộ, bộ công và Nội các khoa đạo đến Sở Nội tạo hội đồng đôn đốc thợ, theo y mẫu mới, đúc tiền Minh Mệnh phi long” [16, T12, 58].

Trong sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia còn thấy loại tiền phi long đời vua Minh Mệnh đúc bằng chất liệu đồng. Tiền tròn lỗ vuông (VN31-1) đường kính 4,2cm, nặng 12gr. Mặt trước đúc nổi 4 chữ Minh Mệnh thông bảo, đọc chéo. Viền xung quanh là hai hình rồng bay. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ Phú Thọ đa nam (Giàu có, sống lâu, nhiều con trai). Viền xung quanh là dây hoa lá.

Tiền thưởng Minh Mệnh thông bảo bằng chất liệu đồng gồm 30 loại, trong đó lưng tiền đúc mỹ tự 4 chữ có 9 loại và mỹ tự 8 chữ có 20 loại như bảng dưới đây.

Thoi bạc, Minh Mệnh niên tạo- Quan ngân tứ tiền.LSb 33301

Thoi bạc, Minh Mệnh niên tạo- Quan ngân tam tiền. LSb 35309

Đồng tiền vàng, Minh Mệnh thông bảo. LSb 35437

Đồng tiền vàng, Minh Mệnh thông bảo – Phú Thọ Đa nam. LSb 34836

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Quốc phú binh cường nội an ngoại tĩnh. VN 29-1

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Hiền hiền thân thân lạc lạc lợi lợi. VN 29-4

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Hà lưu thuận quỹ niên cốc phong đăng. VN 29-6

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo -Truy trác kỳ chương kim ngọc kỳ tương. VN 29 – 3

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Hoa phong tam chúc thiên bảo cửu như. VN 29- 7

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Đắc vị đắc lộc đắc danh đắc thọ. VN 31-11

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Ngũ thần thuận phủ thứ tích kỳ ngưng. VN 31-10

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Phần 1: Tiền thưởng triều Nguyễn: Đời vua Gia Long (1802 – 1820)

Sưu tập tiền thưởng nằm trong bộ sưu tập bảo vật triều Nguyễn có minh văn gồm nhiều chất liệu quý hiếm khác nhau. Sưu tập bảo vật triều Nguyễn này do Bộ Tài chính Việt Nam bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam vào ngày 17-12-1959. Sau đó, vì lý do an ninh, an toàn, sưu tập này được Bảo tàng đóng thùng, niêm phong gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Kể từ khi tiếp nhận lại từ kho Ngân hàng Nhà nước năm 2007 đến nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) đã tổ chức bảo quản, kiểm kê và nghiên cứu bước đầu.

Sưu tập bảo vật triều Nguyễn là khối tài sản quan trọng và có giá trị đặc biệt trong di sản văn hoá dân tộc Việt Nam. Nguồn gốc sưu tập hoàn toàn từ kho tàng của Cung đình Huế bàn giao cho chính quyền cách mạng sau Cách mạng tháng 8/1945.
Tiền thưởng là những đồng tiền mới nhìn chúng ta có thể thấy khác rất nhiều so với những đồng tiền lưu hành trong dân chúng. Tiền thưởng được đúc bằng vàng, bạc hay bạc mạ vàng và đồng. Tùy theo tình hình kinh tế cho phép của đời vua trị vì mà nhà nước cho đúc số lượng cũng như chất lượng nguyên liệu của loại tiền thưởng.

Những đồng tiền thưởng được dùng để làm những kỉ vật trang trọng của nhà vua ban thưởng cho các vị quan lại, vương công quý tộc, anh hùng có công trong các dịp khánh tiết của triều đình…

Về loại hình: Sưu tập tiền thưởng triều Nguyễn gồm có các loại :

– Thoi hay gọi là nén, đúc bằng vàng, bạc.

– Tiền thưởng hình tròn, lỗ vuông, bằng vàng, bạc và đồng.

– Tiền thưởng hình tròn không lỗ, bằng vàng, bạc, bạc mạ vàng.

Tuy các loại hình này có đôi chút khác nhau, nhưng tựu chung, chúng đều đúc nổi minh văn chữ Hán ghi niên hiệu của triều vua, cũng như các câu mỹ hiệu mang ý nghĩa tốt lành, trong sáng, chúc phúc cho nhà vua, cầu bình an cho đất nước… Đôi khi trên tiền còn là những bài thơ hay các cụm từ nói về nguồn gốc nơi đúc, trọng lượng cũng như mệnh giá.

Về chất liệu: các loại hình tiền thưởng này thường đúc bằng vàng, bạc, đồng, trong đó đồng là chất liệu phổ biến nhất, còn các chất liệu như vàng và bạc thì hiếm hơn.

Về mỹ thuật trang trí và chữ đúc nổi: mảng mỹ thuật, hoa văn trang trí trên những đồng tiền thưởng cũng rất đa dạng, linh động và biến ảo. Chẳng hạn có những đồng tiền trang trí hoa dây, cây cỏ, mặt trời,…lại có những đồng trang trí, khắc họa hình ảnh các con vật thiêng như: rồng, hổ phù, long mã,…Có lẽ các kiểu mẫu trang trí như vậy chỉ xuất hiện trên các đồng tiền hình tròn còn trên các thoi, nén hầu như không có. Hay có chăng chỉ là những ký hiệu chấm nổi chạy dọc thân, còn đa số là chỉ đúc nổi hay khắc chìm minh văn chữ Hán mà thôi.

Về chữ đúc nổi hay khắc chìm: Chữ được khắc, đúc nổi bằng chữ Hán kiểu chữ Chân, dễ đọc, rõ ràng. Đối với loại hình tiền hình tròn thì một mặt sẽ được đúc nổi niên hiệu của nhà vua cùng hai chữ “Thông bảo -通寶”. Chẳng hạn như: “Minh Mệnh thông bảo – 明 命通寶”, “ Tự Đức thông bảo – 嗣 德 通寶”,…Cũng có các trường hợp hai chữ “Thông bảo – 通寶” được thay bằng các chữ khác. Ví dụ như: “ Bảo Đại bảo giám – 保 大寶鑑”,…. Ngoài ra còn có những trường hợp chữ “thông – 通” được thay thế bằng các chữ khác như “ trọng – 重, nguyên – 元, hưng – 興”,…Nhưng các trường hợp như vậy cũng là rất hiếm trên loại hình tiền thưởng. Trên mặt trước là như vậy, mặt sau có thể là những câu mỹ hiệu gồm 4 hay 8 chữ mang ý nghĩa tốt lành, trong sang, chúc phúc cho nhà vua, cho đất nước, cho muôn dân,… Ví dụ như: “Liễm phúc tíchdân – 歛福錫 民 : thu phúc đem lại cho muôn dân”, “Kinh luân thiên hạ – 經綸 天下 : Tài năng gánh vác trị vì thiên hạ”, “Hà lưu thuận quỹ, niên cốc phong đăng – 河流 順軌 年 穀 豐登 : Dòng nước xuôi thuận dòng, mùa ngũ cốc hàng năm được mùa”,…Còn trên các thoi, nén nội dung chữ khắc chìm hay đúc nổi là niên hiệu vua như đã nói ở trên cùng hai chữ “niên tạo – 年 造” như “Gia Long niên tạo – 嘉 隆年 造”, “ Thiệu Trị niên tạo -紹治年造”,…Và các từ chỉ nguồn gốc nơi đúc, trọng lượng, mệnh giá, thời gian, …Ví dụ như : “Trung bình – 中平”,“ giáp – 甲”, “công – 公”, “trung bình ngân phiến ngũ tiền – 中平銀 片五錢, “Đinh Mùi – 丁未”, “Sơn Tây – 山 西”, “Bình Định -平 定” .

Tựu chung lại, dù mỹ thuật trang trí có độc đáo, cao thâm hay gần gũi thường nhật, chữ đúc có đẹp, nổi rõ ràng thì nội dung, ý nghĩa và hình thức vẫn phải nằm trong các qui định, khuôn phép của nhà vua và triều đình.

Bộ sưu tập tiền thưởng triều Nguyễn thuộc các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Khải Định, Bảo Đại là chủ yếu, còn các triều vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Duy Tân không thấy có trong sưu tập tiền thưởng này.

Dưới đời vua Gia Long chưa thấy xuất hiện loại tiền thưởng hình tròn. Nhà nước cho đúc loại tiền thoi bằng bạc hình khối hộp chữ nhật. Tháng 10 năm Nhâm Thân 1812, nhà nước bắt đầu cho đúc bạc đĩnh 10 lạng. Tiền đúc thành thoi hình khối hộp chữ nhật hơi khum: Dài 12,5cm, rộng 2,95cm, dầy 0,15cm xung quanh đóng dấu nổi công, giáp. Loại tiền thoi bạc 1 lạng cũng có hình khối chữ nhật. Trên mặt tiền đúc nổi 4 chữ theo hàng dọc Gia Long niên tạo – 嘉 隆年 造 (Tạo tác trong niên hiệu Gia Long, 1802 – 1820), lưng tiền đúc nổi 4 chữ Tinh ngân nhất lạng – 精銀 壹両 (Bạc dòng 1 lạng). Xung quanh còn có các dấu trung bình hiệu – 中平號, công giáp – 公 甲, hoằng thái – 弘泰 ….Ngoài ra trong đời Gia Long còn cho đúc loại thỏi bạc Trung bình ngân phiến ngũ tiền – 中平銀 片五 錢.

Ngoài ra, không thấy có những đồng tiền thưởng hình tròn bằng chất liệu vàng, bạc hay đồng trong sưu tập tiền thưởng đời vua Gia Long này.

Thoi bạc 嘉 隆年 造 – 中平銀 片五 錢

Gia Long niên tạo – Trung bình ngân phiến ngũ tiền. LSb.35297

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Giao lưu văn hóa Đại Việt – Chămpa trên cổ vật

Trong tiến trình lịch sử của mình vương quốc Chămpa luôn có những mối quan hệ giao lưu và tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu vực, trong đó có Đại Việt thời Lý – Trần.

Chămpa được thành lập vào thế kỷ thứ II, ban đầu có tên là Lâm Ấp, thế kỷ thứ VII mới đổi thành Chămpa. Buổi đầu kinh đô của vương quốc này được đặt tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam. Nhưng vào giữa thế kỷ thứ VIII, đã được dời xuống phía nam và đặt ở khu vực Phan Rang, Nha Trang ngày nay. Đồng thời lúc này thư tịch cổ không còn chép là Lâm Ấp nữa mà gọi là Hoàn Vương.

Hầu hết các tháp Phật thời Lý – Trần được làm bằng đất nung và có bình đồ hình vuông như tháp Bình Sơn, tháp Phổ Minh là tiếp thu từ văn hóa Chăm. Các tháp Chăm đều có bình đồ hình vuông do ảnh hưởng từ các tháp Tudi của Ấn Độ. Và tháp Chăm chỉ có một cửa vào cũng đã ảnh hưởng đến lối xây dựng chùa Một Cột dưới thời Lý.

Mô hình tháp đất nung thời Lý – Trần có bình đồ hình vuông mang hơi hướng của văn hóa Chăm

Trên những hiện vật gạch ngói úp nóc tạc hình chim uyên ương ở kinh thành Thăng Long chúng ta thấy có những nét phẳng phất giống với ngỗng thần Hamsa trong văn hóa Chăm, phần đầu cánh được xoắn lại tạo nên hình cánh cung giống với đôi cánh của thần điểu Garuda.

Tượng uyên ương trong văn hóa Lý – Trần

Chim thần Garuda trong văn hóa Chăm

Tượng chim Kinnari gốm đất nung trong văn hóa Lý – Trần được lấy nguyên mẫu từ tượng chim Kinnari bằng đá sa thạch trong văn hóa Chăm.

 

Chim Kinnari, chất liệu đá sa thạch trong văn hóa Chăm

Chim Kinnari, chất liệu gốm đất nung thời Lý – Trần

Như vậy, những dấu ấn Chămpa trong kiến trúc, mỹ thuật và tạo hình tại các công trình xây dựng cho thấy văn hóa Chămpa đã ảnh hưởng sâu sắc đến lối sáng tác, tư duy, thẩm mỹ của người Đại Việt thời Lý – Trần. Người Chăm đã mang những nét văn hóa riêng của mình ra Đại Việt, hòa trộn với văn hóa bản địa để làm nên sự tỉ mỉ, chau chuốt của các hiện vật thời Lý – Trần. Các hiện vật tồn tại cho đến ngày nay đã phần nào cho chúng ta thấy rõ điều đó.

 

 

 

Về thủ công nghiệp thời kỳ Lý – Trần – Lê sơ

Thủ công nghiệp nhà Lý có 2 bộ phận, của tư nhân và của nhà nước.

Lực lượng lao động trong thủ công nghiệp nhà nước là thợ bách tác. Họ làm việc như đúc tiền, chế tạo binh khí, chiến thuyền và các đồ dùng như tơ lụa và phẩm phục của triều đình. Thợ bách tác có nguồn gốc từ các chiến binh, nhiều nhất là người Chiêm Thành, các tội nhân, những thợ thủ công bị trưng tập làm trong các quan xưởng.

Thủ công nghiệp tư nhân thì rất phổ biến, họ làm ra các sản phẩm để tự túc hay trao đổi trên thị trường.

Các nghề phổ biến thời kỳ này gồm nghề dệt, nghề khai thác vàng, nghề đúc đồng, nghề in bản gỗ, nghề làm gốm.

Nhà Trần vẫn tiếp tục xây dựng quân xưởng thủ công nghiệp nhà nước.

Thủ công nghiệp nhà nước gồm có nhiều ngành nghề khác nhau như nghề gốm, nghề dệt, chế tạo vũ khí.

Nghề sản xuất gốm là một bộ phận quan trọng của quan xưởng. Lò gốm trong các quan xưởng này sản xuất các đồ dùng gia đình như chén, bát, đồ thờ cúng, các vật liệu xây dựng như gạch, ngói,… Tại Thiên Trường tìm thấy các phế tích gạch, ngói mang chữ “Vĩnh Ninh trường” hay “Thiên Trường phủ chế”.

Thủ công nghiệp nhân dân có nghề gốm, nghề rèn sắt, nghề đúc đồng, nghề làm giấy và khắc bản in, nghề mộc và xây dựng, nghề khai khoáng.

Hòa bình lập lại, nhu cầu phục hồi và phát triển nông nghiệp, xóm làng, xây dựng lại kinh thành, trấn lị đã thúc đẩy sự phục hồi và phát triển nhanh chóng của các nghề thủ công. Các ngành, nghề truyền thống như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, rèn sắt, dệt chiếu, làm nón, đúc đồng ngày càng phát triển ở các làng.

Những làng thủ công chuyên nghiệp lại nổi lên như Bát Tràng, Nghĩa Đô, Huê Cầu, Hương Canh, Mao Điền, Bất Bế,… Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề và lúc này được chia thành 36 phường.

Thời Lê sơ các công xưởng của nhà nước được gọi với tên chung là Bách tác. Cục này chuyên đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, làm các đồ dùng cho vua quan như: mũ, áo, giày, hốt?

Để tiện việc buôn bán, trao đổi nhà Lê bỏ tiền giấy thời Hồ, cho đúc tiền đồng mới và quy định rõ: 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng.

Cảnh Thịnh bronze drum – the echo from thousand years

The Tay Son Dynasty (1778-1802) was associated with the name of the Vietnam national hero Quang Trung – Nguyen Hue, who had made glorious victories against foreign invaders, protecting the independence of the Vietnamese nation. After the victory of battle against Chinese Qing invaders in 1789, Quang Trung emperor focused on restoring the country, stabilizing the society and developing the national culture.

Although only existing in a short time, the Tay Son period has left for posterity the special cultural heritage and unique art treasures bearing characteristics of the era. The Canh Thinh bronze drum is one of the typical examples, which currently kept and displayed at the Vietnam National Museum of History.

Canh Thinh bronze drum was cast in the 8th year of the Canh Thinh reign, Tay Son Dynasty (1800).

Canh Thinh bronze drum was made by the lost-wax casting method with the measures: weight: 32 kg, height: 37.4 cm, tympanum diameter: 49cm. The drum’s tympanum has a curved surface like globe calotte with two relief circles at the center. The drum’s body is cylindrical with slight swelling in the middle and divided into three equal parts. Corresponding with each part is a decorative band. The main decorative themes are designed on two bands: on the topmost band, there are patterns of the four holy beasts (Dragon, Kylin, Turtle and Phoenix) which symbolize for the peace and prosperity of the country, meanwhile the lowmost band shows patterns of longma (dragon horse) carrying Hetu (Yeallow River Chart) and Holy Turtle carrying Luoshu (Inscription of the River Lou). Hetu and Luoshu are the two original symbols of Yi Jing (the Book of Changes) – the background of the Oriental thought about the Law of Change. The philosophical thought is applied to many fields of life such as cosmology, astronomy, geography, fengshui, social management and so on. Besides, there are also a lot of auxiliary decorative patterns like lemon flower, T-shaped reiteration, cloud shapes and taotie (a mythological evil).


Leaves decorative pattern

Kylin decorative pattern

Phoenix decorative pattern

Canh Thinh – drum is a unique artifact in the collection of Vietnamese bronze drum. While the Dong Son drum (type Heger I, dating from the 7th century B.C to the 3rd century A.D) and the Muong drum (type Heger II, dating from the early of B.C to the 15th -17th century) have a well-proportioned shape with distinct parts like the tympanum, the barrel, the body and the foot, the Canh Thinh drum is shaped like a traditional leather drum, with two drumheads and the body is also the barrel.


Longma carrying Hetu decorative pattern

Holy Turtle carrying Luoshu decorative pattern

Not only unique in style, but also the characteristic in decoration art. These factors make the drum balance overall. The theme of 4 sacred animals in general and kylin or turtle in particular, appeared early in Vietnamese ancient art. But the combination of these symbols in the same artifact as Canh Thinh bronze drum seems to be the beginning for a flourished stage of art in the Nguyen Dynasty (1802-1945).
The themes are stylized through the motifs of leaf turning into dragon and leaf turning into taotie. Stylization is the way to express the ability to create a particular style on the basis realistic. By the way, flowers and leaves to stylize the scared animals creating a nature, freedom and closeness.
Besides, we still easy to recognize the inherent elements through popular decorative patterns in the art under Ly – Tran – Le Dynasty (11th – 15th century), showing the continuous development in Vietnamese ancient art. The motif of flying phoenix with spreading wings could be seen as a refractional image of flying birds on Dong Son bronze drums. Moreover, the two relief circles on Canh Thinh drumhead are probably a stylized variant of the center star on the tympanum of Dong Son drums.

The Canh Thinh drum is also considered as a historical source, another factor that makes the special value of the drum. The inscriptions on the body show that the drum was cast in the 8th year of the Canh Thinh reign, Tay Son Dynasty (1800) at Ca Pagoda (Linh Ung Pagoda), Phu Ninh commune, Dong Ngan district, Tu Son district (Nanh Pagoda, Ninh Hiep commune, Gia Lam district, Hanoi today). Particularly, there is a paragraph with 222 Chinese characters mentioning the reason of drum-casting. Ms Nguyen Thi Loc, wife of duke Giao, head of the eunuchs under the reign of the Emperor Le Y Tong (1736) contributed to build Linh Ung Pagoda.To commemorat her merit, the people of Phu Ninh commune have contributed to cast the drum and other worship items to remind the next generations.


The 222 Chinese characters mentioning the reason of drum-casting

Chinese characters mentioning the date of casting

Chinese characters mentioning the place of casting

With the unique form and special values in history, culture and art; showing the preservation and development of casting and using Vietnamese bronze drum over two millennia, Canh Thinh bronze drum was recognized as the Vietnam National Treasure by the Prime Minister in 2012. On the other hand, Canh Thinh bronze drum makes a contribution to affirming the fine art of Tay Son period deserving as a valuable source, enriching the historical material. It not only inherits, promotes the fine art’s values of the past but also creates the premise for development in future generations.

Scource: Vietnam National Museum of History

Tìm hiểu về gốm minh văn triều Mạc qua sưu tập chân đèn ở BTLSQG

Triều Mạc là một triều đại để lại nhiều dấu ấn về phát triển kinh tế, văn hóa… Sự phát triển này được thể hiện trên nhiều phương diện, trong đó nổi bật là nghề làm gốm với loại hình đồ gốm có minh văn rất độc đáo. Minh văn trên đồ gốm là một nguồn tư liệu quý, cung cấp cho chúng ta thông tin về họ tên, quê quán của người thợ sản xuất; họ tên của những người đã đặt hàng, từ những tầng lớp trên như công chúa, phò mã tới tầng lớp bình dân.

Gốm có minh văn hầu hết là đồ thờ cúng như: chân đèn, lư hương, tượng thờ. Những minh văn trên gốm thờ còn khắc tên các ngôi chùa, quán và đề tài trang trí chủ yếu là rồng, phượng, lá đề, hoa sen, cánh sen…. Điều này được minh chứng rất rõ qua sưu tập chân đèn gốm có minh văn trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tiếp nối sự phát triển gốm thời kỳ trước đó, đến triều Mạc thì nghệ nhân gốm hội tụ đầy đủ yếu tố cho sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo, để làm ra những chân đèn gốm kiểu dáng mới, nghệ thuật và kỹ thuật trang trí theo lối riêng, mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế với những loại hình mang tính mỹ thuật cao. Đây là loại hình gốm mỹ thuật đặc sắc về tạo hình, để lại nhiều tên tuổi nghệ nhân giỏi như: Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương); gia đình Đỗ Phủ ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm; Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương …

Chân đèn gốm triều Mạc khá phong phú về kiểu dáng, màu men (chủ yếu gốm hoa lam, lam xám) được nghệ nhân tạo tác với hầu hết các kỹ thuật như chuốt, tạo dáng trên bàn xoay. Sản phẩm được thực hiện trên nhiều công đoạn khác nhau, phức tạp và tỉ mỉ. Các bộ phận của chân đèn được chia thành nhiều phần khác nhau, lắp ghép lại, sau đó được gia công thêm bằng cách nặn, đúc, đắp nổi, vẽ các dạng hoa văn, hình tượng. Và đặc biệt, trên loại sản phẩm gốm này còn được thể hiện rất nhiều minh văn, đem lại cho chúng một giá trị lịch sử cũng như giá trị về phong cách tạo hình một cách chính xác.

Để thể hiện các bài minh trên gốm, các nghệ nhân xưa thường dùng lối khắc chữ, viết bằng men lam dưới men trắng, in đắp nổi chữ hoặc kết hợp giữa các phương pháp này với nhau. Nếu là khắc hoặc đắp nổi thì thường là khắc chữ sau khi đã phủ men, đôi khi cũng có trường hợp khắc chữ dưới men (có nghĩa là chữ được khắc trên xương gốm sau đó phủ men). Kiểu chữ dù viết, khắc hay đắp nổi đều dùng lối chữ chân phương. Đối với chân đèn, minh văn thường được thể hiện trước đầu rồng ở thân trên thuộc phần dưới các chân đèn và kéo dài dọc các cánh sen đứng ở thân dưới. Còn với lư hương, minh văn thường được khắc ở các dải quai, quanh miệng hoặc chân đế, khắc xung quanh cổ hoặc khắc quanh đế.

Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử quốc gia trưng bày chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành năm thứ 3 (1580). Chân đèn gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và 2 đoạn dưới hình cái loa cách nhau bằng đường gờ nổi để mộc; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi để mộc 2 cặp phượng múa ở phần trên; băng lá đề kép ở vai và hình rồng vờn ngọc ở thân, kết hợp vẽ lam hoa và mây trong băng cánh sen dưới miệng, mây quanh rồng phượng; cánh sen dài trong có dải xoắn ốc, băng hoa cúc dây trên đế. Men phủ màu trắng ngà.

Chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành 3 (1580)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 24, tháng 6, niên hiệu Diên Thành 3 (1580) và do nghệ nhân Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu, ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng chế tạo. Minh văn còn cho biết Đại sĩ Ngạn Quận công Mạc Ngọc Liễn, vợ là trưởng công chúa Phúc Thành cùng với 74 sãi vãi thuộc 2 xã Lưu Xá và Đặng Xá, đặt làm chân đèn đẻ cung tiến vào quán Linh Tiên (xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ).

Bên cạnh đó, chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và đoạn 2 và 3 hình loa, cách nhau bằng đường gờ nổi tô nâu; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi 2 mặt hổ phù ở phần trên; trang trí vẽ lam, xung quanh đoạn miệng chia dọc nhiều dải chữ nhật, vẽ hoa. Đoạn 2 và 3 vẽ 2 cặp phượng múa. Phần dưới, vai vẽ băng lá đề bên trong vẽ nửa bông hoa. Thân trên vẽ rồng mây, thân dưới vẽ cánh sen đứng, trong vẽ các dải xoắn đôi. Chân đế vẽ băng chữ V lồng, lá đề và dây lá hình sin. Men vẽ phủ màu xanh đen, men phủ màu trắng xám.


Chân đèn gốm lam xám, triều Mạc, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 1 tháng 4, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) và do nghệ nhân Đỗ Xuân Vi ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An chế tạo. Minh văn còn cho biết các sãi vãi ở xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng công tạo bình hoa cúng dưỡng chùa Quan Âm (xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng) làm vật Tam bảo.

Đặc biệt, chân đèn gốm men lam xám và nâu, thời Mạc, tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588) là hiện vật độc đáo. Chân đèn gồm 2 phần, phần trên tạo dáng một bông hoa sen nở, trang trí rồng đuổi, rồng uốn. Phần dưới có vai và thân phình chạm nổi băng cánh sen bên trong có bông hoa. Thân trên chạm nổi 4 rồng “yên ngựa” trong khung viền hình nhĩ bôi. Thân dưới chạm nổi băng cánh sen đứng bên trong có hình rồng nổi. Chân đế chạm nổi răng cưa, vạch đứng song song, cánh hoa bên trong có bông hoa. Men phủ màu lam xám, tô men nâu trên 2 tai rồng và dải quai.

Minh văn trên chân đèn cho biết niên đại tuyệt đối cũng như họ tên nghệ nhân chế tạo ra nó. Dọc theo thân trên có khắc 2 dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4, đời vua Mạc Mậu Hợp (1588) và do nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) chế tạo.

Các nhà nghiên cứu đánh giá, trong các loại hình đồ gốm có minh văn ở triều Mạc thì đèn gốm chiếm số lượng nhiều nhất. Những người thợ gốm đua tài bằng cách làm ra nhiều cây đèn chân cao, kích thước lớn, trang trí phức tạp. Nhìn hình dáng bề ngoài thì chân đèn gốm giống như những chiếc bình cắm hoa nhưng thực tế lại dùng để đặt đĩa đèn dầu lạc hay đĩa hoa trên miệng bình phục vụ cho cúng lễ. Chân đèn gốm thời Mạc đẹp hơn các thời khác, nó trở thành thước chuẩn để đánh giá phần nào phong cách của mỹ thuật thời Mạc.

Qua so sánh nhiều tác phẩm đồ gốm, Đặng Huyền Thông được các nhà nghiên cứu đánh giá là nghệ nhân gốm xuất sắc triều Mạc, tiêu biểu cho đỉnh cao của nghệ thuật gốm thời Mạc. Tạo hình tác phẩm của ông mang phong cách rất riêng: trang trí hoa văn trên các tác phẩm gồm nhiều đề tài như hoa sen, hoa cúc, hoa dây, hình rồng, hình học… với rất nhiều bố cục khác nhau. Đề tài tứ linh không được sử dụng trong trang trí mà chỉ có hình rồng, với 15 kiểu rồng nổi khác nhau (rồng nổi kiểu “yên ngựa”, rồng uốn trong cánh sen, rồng uốn trong hình lá đề, rồng uốn trong hình tròn, rồng đuổi…). Các hoa văn hình học như băng răng cưa, vạch thẳng song song… được coi là nối tiếp phong cách truyền thống văn hóa Đông Sơn…

Bên cạnh đó, trên đồ gốm do ông chế tạo, minh văn còn cho biết tên thật của ông là Đặng Mậu Nghiệp tự là Huyền Thông. Ông là sinh đồ, người đã thi đỗ tam trường, làm thợ gốm, quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Những thông tin về tác giả Đặng Huyền Thông không chỉ thấy trên đồ gốm mà còn trên minh văn bia chùa An Định (Hải Dương) quê hương ông. Nội dung văn bia cho biết: Chùa An Định xưa đã bị mai một. Trong xã có Đặng Mậu Nghiệp tên chữ là Đặng Huyền Thông, cùng vợ là Từ Am Nguyễn Thị Đỉnh kết hợp với nhiều vương công và đông đảo người hảo tâm trong xã huyện đứng ra hưng công dựng chùa, tạc tượng. Bia lập vào niên hiệu Đoan Thái 3 (1587). Người soạn văn bia này chính là Đặng Huyền Thông.

Như vậy, qua sưu tập gốm minh văn triều Mạc thế kỷ 16 cho thấy dòng gốm mang nét riêng độc đáo góp phần làm phong phú kho tàng gốm cổ Việt Nam. Hơn nữa, các thông tin trên minh văn đồ gốm góp phần minh chứng thời kỳ phục hưng Phật giáo ở Việt Nam trong thế kỷ 16.

Nguồn: BTLSQG