Archives

Phân Biệt Đồ Gốm Sứ Thật và Giả

Phạm Thành Trung xin chào Các Bác !

Thêm một bài viết mình chia sẻ về cổ vật gốm sứ , bản thân mình chủ yếu sưu tầm bên mảng đồ gỗ cổ  lên về gốm sứ mình cũng chưa hiểu rõ tưởng tận được . Chính vì thế mình viết bài này với mong muốn nhận thêm được những ý kiến đóng góp của mọi người , và chia sẻ những kiến thức , kinh nghiệm mà mình có được trong những năm tháng buôn ba tứ xứ .

Với những người chơi đồ lâu năm thì chỉ cần nhìn nước men, cốt dáng  , màu mực, nét vẽ là có thể phân biệt được nhưng vớinhững ngườichưa có kinh nghiệm thì mình xin chia sẻ mấy cách của mình dưới đây :

Đặc biệt để ý Dưới đáy : Thường thì chúng ta muốn xem 1 món đồ cổ thì lật đít lên xem thật kỹ, sau đó chủ quan khẳng định 99% là cổ xưa. Vịn vào sự chủ quan này mà bọn giả mạo rất thích dùng kỹ thuật đáy cũ-thân mới bất cứ khi nào có thể. Nhất là những món đồ có hiệu đề nổi tiếng, đồ lành quá ít, trong khi những món bể nát chỉ còn trơ đáy thì không đáng tiền. Vì thế phải xem thật kỹ đáy  :

Đối với ấm chén , lậm lai , đĩa hay đồ nhỏ thì trong quá trình sử dụng có thể đáy nhẵn    và ngả màu vàng nhạt  đi phần nào – nhưng nhẵn quá thì bạn lên lưu tâm – vì có thể có sự tác động xấu của con người

phân biệt đồ sứ thật và giả

Đáy Bát nhỏ – khá nhẵn mịn và xuống màu nhiều . 

Đối với những đôi lộc bình hay đồ  lớn thì đáy thường không nhẵn lắm vì những món đồ ít xê dịch .

phân biệt đồ sứ thật và giả

Đáy bình ít xê dich lên không nhẵn và ít xuống màu .

Lưu Ý : Phần tiếp giáp giữa đáy và thân – phải có sự ngả màu từ từ – chứ không thể đáy thì già câng , ngả màu còn thân thì men bóng sáng được .

Giả mạo trầm tích biển hay dính đất , đồ đào : 
Việc ngày càng nhiều con tàu đắm được phát hiện và những cổ vật của nó ngày càng có giá trên thị trường, khiến nhiều người tin rằng hễ có hào bám, rong rêu, trầm tích bám trên hiện vật thì đảm bảo rằng chúng là đồ cổ đã nằm sâu dưới biển hàng mấy trăm năm về trước.

Sự thật là bọn giả cổ chỉ cần ngâm đồ mới xuống dưới biển, dưới ao hồ, bùn lầy khoảng vài tháng là khi vớt lên thì đã đầy những trầm tích, hào bám khá chắc. Cho nên chúng ta đừng quan trọng việc có trầm tích , có vết hào bám bên ngoài hay không, mà cần xem bản thân hiện vật .

Ngâm axit – hóa chất – hay phơi nắng :

Đối với đồ giả kiểu này thì chúng ta phải soi thật kĩ phần trong lòng ( bình lọ)  , cạnh khuất , cạnh trong của món đồ và  khu đáy không tráng men cũng sẽ bị ảnh hưởng ăn mòn bởi axít. Mà điều này thì không thể đồi với cổ vật tự nhiên. vì dùng tự nhiên  thì các phần đó rất ít bị tác động , Ngoài ra chúng ta cũng có thể nhận biết đồ đã ngâm qua axít bằng cách…ngửi chúng !

Thêm 1 cách mà cách nhà khoa học hay dùng đó là Phân tích bọt khí :

-Xem hướng của bọt khí:

Như ta cũng biết là dưới kính phóng đại, ta có thề nhìn thấy những bọt khí dưới lớp men 1 món đồ cổ.  Nó có thể sắp thành từng chuỗi ngang hay dọc theo chu vi món đồ. Về lý thuyết là khi món đồ nung trong lò được sắp theo phương thẳng đứng thì nó sẽ có những bọt khí hương lên. Còn những món đồ dùng khuôn hàng loạt rồi để vào lò theo phương ngang thì nó sẽ cho ra chuỗi bọt khí ngang. Còn đồ cổ thì bọt khí sẽ xuất hiện một cách tự nhiên không theo 1 dạng cố định nào và đó là cách nhận biết 1 món đồ giả cổ làm bằng khuôn so với 1 món đồ chuẩn.

phân biệt đồ sứ thật và giả

Hình ảnh phóng to để thấy rõ Bọt Khí và Chất thải của vi sinh vật.

-Kích thước bọt khí :

Với phương pháp sản xuất thủ công xa xưa, cổ vật thường có bọt khí kích thước không đều nhau (có thể nhìn thấy bằng kính lúp bọt khí lớn và nhỏ khác nhau trên cùng 1 hiện vật). Nếu bọt khí vắng mặt hoặc tất cả đều đồng nhất và nhỏ, điều này có thể là một dấu hiệu của phương pháp sản xuất hiện đại- đốt bằng lò gas, lò điện thì nhiệt độ rất ổn định.

Cách cuối cùng là dùng kính núp và đèn pin để nhìn kỹ bề mặt , làn da không bằng phẳng thể hiện sự co rút men tự nhiên , những chỗ đọng mực đậm thường lõm xuống biểu hiện sự hút của lực trái đất với phần mực đậm có tỷ trong lớn hơn , các mồ mả của đám vi sinh và chất thải của chúng đã đầy nổi cộm có màu trắng đen lẫn lộn nếu ta làm vệ sinh sạch sẽ thì chỗ đó sẽ lõm xuống như ao nước .

phân biệt đồ gốm sứ thật và giả

Hình ảnh phóng to để thấy rõ bề mặt không phẳng và mực đọng .

Mình biết các bạn còn rất nhiều cách khác để phân biệt nữa , rất mong nhận được chia sẻ của mọi người .

Bài viết của mình  dựa trên tầm hiểu biết cá nhân chính vì thế rất cần sự đóng góp ý kiến và chỉ giáo của các Bạn . Nếu thấy mình viết  chỗ nào  chưa đúng hãy liên hệ  giúp mình sửa sai .

Cảm Ơn các Bạn rất nhiều .

Phạm Thành Trung – Trân Trọng !

Nguồn: http://kienthuccovat.com/phan-biet-do-gom-su-that-va-gia/

Gốm Chu Đậu – tinh hoa văn hóa Việt Nam

“Gốm Chu Đậu – tinh hoa văn hóa Việt Nam” là 9 chữ vàng mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp ưu ái dành tặng gốm Chu Đậu. Mang nặng văn hóa thuần Việt với những đặc trưng tinh xảo, sau gần ba thế kỷ bị vùi sâu trong lòng đất, gốm Chu Đậu đã được khai phá và hồi sinh rực rỡ.

Chu Đậu là một trong những cái nôi của nghề gốm Việt Nam. Thôn Chu Đậu thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Chu là thuyền, Đậu là bến. Chu Đậu là thuyền đậu bên bến sông. Bao nhiêu đời nay trong trí nhớ của những người còn sống, Chu Đậu là làng quê nhỏ, hiền hòa, nằm nép mình bên dòng sông Thái Bình. Đến khi xuất hiện những dấu vết về một trung tâm gốm phát triển rực rỡ nhiều thế kỷ trước tại chính địa danh này, Chu Đậu đã trở thành mảnh đất ấp ủ trong lòng nó một mỏ vàng quý giá, đó là lưu truyền về một dòng gốm bác học đạt đến đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật nổi tiếng bậc nhất trên thế giới thời bấy giờ. Continue reading

Đọ độ khủng của các “vua cổ vật” khắp Việt Nam

Ở Việt Nam có rất nhiều người chơi cổ vật nhưng được khâm phục về chuyên môn, đạo đức và những món đồ độc nhất chỉ có thể là “Vua cổ vật”.

Đoàn Anh Tuấn – “Vua” cổ vật hào hiệp

Ông Đoàn Anh Tuấn – Giám đốc Trung tâm UNESCO nghiên cứu, bảo tồn cổ vật Việt Nam, người hiến tặng cổ vật nhiều nhất hiện nay được mệnh danh là “Vua từ thiện cổ vật”.

Dòng họ Đoàn của ông ở phố cổ Hà Nội nổi tiếng với thú mê cổ vật. Có lẽ vì thế mà “máu” cổ vật đã ngấm vào con người ông Tuấn từ khi còn rất trẻ. Năm 1998, khi Nhà nước ban hành Luật di sản thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về cổ vật, ông Tuấn đã bán căn nhà mặt phố Trương Định để dồn tiền mua cổ vật. Thậm chí, ông còn từng hành nghề bơm vá, sửa xe đạp, xe máy, mò lên các bãi vàng để kiếm tiền mua cổ vật.

Ông Đoàn Anh Tuấn ngồi giữa căn phòng ngập cổ vật

Cổ vật được ông Tuấn bày biện khắp nhà theo niên đại. Lâu đời nhất là chiếc tủ bày các công cụ lao động sản xuất, vũ khí của người xưa, kế đến là các trang sức của nền văn hóa Đông Sơn, nhà bằng đất nung từ thời kỳ đầu công nguyên, chum, thạp thời Lý, Trần,… Những chiếc trống đồng Đông Sơn, ấm rượu đồng rèn đầu rùa thế kỷ I – III; tượng Quan âm đồng thế kỷ I được chất đầy trong căn phòng ngót nghét trăm mét vuông trên tầng 2.

Ông Tuấn cho biết, ông mua đồ cổ chỉ để chơi và hiến tặng chứ chẳng bao giờ tính đến chuyện lời lỗ. Máu cổ vật là vậy, nhưng Đoàn Anh Tuấn không bao giờ “chơi” đồ trục vớt. Ông cũng “kỵ” cổ vật Trung Quốc, chỉ thích chơi những thứ đồ mà các cụ người Việt từng dùng.

Những cổ vật được trưng bày một cách gọn gàng ngăn nắp

Được phần đông giới chơi thừa nhận là một trong những người có nhiều cổ vật nhất, nhưng Đoàn Anh Tuấn chưa bao giờ nhận mình là “vua cổ vật”. Với ông, cổ vật chính là vật chứng lịch sử, phải mang lại lợi ích văn hóa cho cộng đồng, mới là chơi cổ vật, chứ không phải cứ lao vào những món đắt tiền. Vì thế, ông liên tục mua cổ vật rồi liên tục hiến tặng lại cho các bảo tàng. Theo ông, thực chất, khi tặng – cũng như khi giúp các bảo tàng tổ chức trưng bày, là chúng tôi gửi di sản về với cuộc sống để mọi người chiêm ngưỡng, bổ sung kiến thức văn hóa truyền thống. Như vậy thì có gì phải tiếc!

Nguyễn Thanh Đạm – “Vua cổ vật” đồ đồng

Nguyễn Thanh Đạm, sinh năm 1952, ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An được mệnh danh là “vua” đồ đồng miền Trung. Hiện ông đang sở hữu nhiều cổ vật bằng đồng, trong đó có 200 chiếc mâm đồng đúc liền với những tuyệt tác được chạm khắc hết sức tinh vi, điêu luyện; bộ tượng bằng đồng, chuông đồng, khánh đồng, lư hương, đèn… có niên đại hàng trăm năm.

“Vua” đồ đồng Nguyễn Thanh Đạm luôn ý thức về việc giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc

Ông Đạm cho hay, gia đình ông có “vật gia bảo” lưu truyền qua 5 đời đó là những chiếc mâm đồng, lư hương mà bố ông trước khi mất có căn dặn: “Dù có đói, có chết, con cũng không được bán, đổi nó đi”. Cũng chính từ đó, trách nhiệm thiêng liêng đã đánh thức ông Đạm về việc gìn giữ, bảo quản và bổ sung thêm cho bộ sưu tập đồ đồng. Thời gian ông làm công nhân hóa chất ở Nghệ An, ngoài đồng lương ít ỏi, ông còn dành dụm tiền “săn lùng” cổ vật khắp mọi miền đất nước.

Tránh kẻ xấu đánh cắp, ông Đạm đã xếp gọn đồ đồng trong hòm sắt giấu kỹ trong hầm kín bởi hiện giờ, tường rào nhà ông không thể đảm bảo an toàn cho những hiện vật quý hiếm này.

Hơn 40 năm gìn giữ, sở hữu số lượng lớn bộ đồ đồng, ông Đạm rất tự hào và hãnh diễn về tài sản quý giá này. “Tôi không dám nói trong tay có tiền tỉ, hoặc hàng trăm triệu đôla. Tôi dám khẳng định rằng giá trị cổ vật đổi ra bằng tiền ít đại gia nào theo kịp tôi. Nhưng tôi không bao giờ bán hay đổi lấy một thứ gì”.

Hồ Tấn Phan – “Vua cổ vật” xứ Huế

Người dân xứ Huế gọi ông là “nhà nghiên cứu Huế”, hay “vua cổ vật”. Nhưng, ông chỉ nhận mình là “người tiên phong tìm đồ cổ trên dòng Hương Giang”… Ông “vua cổ vật” ấy là Hồ Tấn Phan, năm nay ngoài 70 tuổi, ở phường Phú Hiệp, TP Huế, người sở hữu một kho sách cùng hàng ngàn cổ vật quý có niên đại hơn 2.500 năm.

Ông Phan kể, cuộc hành trình đi tìm đồ cổ ấy khiến ông phải sớm chia tay với bục giảng. Năm 49 tuổi, cuộc truy tìm cổ vật được ông đầu tư công sức hơn bao giờ hết. Để có được những cổ vật như bây giờ, ông Phan phải săn lùng ở khắp nơi và nhiều khi bỏ ra số tiền lớn để có được cổ vật mong muốn.

Cổ vật mà mấy chục năm qua ông Phan cất công tìm kiếm đến giờ này đã chất đầy từ trong nhà ra đến ngoài vườn

Theo ông Phan, để sở hữu một kho tàng cổ vật không dễ chút nào. Riêng chuyện phải “đối phó” với những tay anh chị chuyên đi buôn đồ cổ đã rất khó khăn. Song, sau nhiều năm gắn bó với người dân vạn đò, khi vớt được thứ gì họ cũng đem bán cho ông với giá vừa phải.

Ông Phan khẳng định, mỗi khi tìm được cổ vật mới là ông phải thức ngày thức đêm để nghiên cứu giá trị của triết lý văn hóa và niên đại của cổ vật

Những cổ vật của ông được trưng bày khắp nơi, vì trong nhà không còn chỗ để nên ông đành để ngoài vườn. Ông Phan tiết lộ, hiện ông có nhiều loại cổ vật quý hiếm, có giá trị về lịch sử và khoa học. Đa số cổ vật của ông là đồ gốm Sa Huỳnh có niên đại hơn 2.500 năm.

Ông Phan khẳng định, người chơi cổ vật không chỉ cần tiền, cần sự nhẫn nại mà còn cần cả cái duyên, cũng giống như trai gái yêu nhau, sống với nhau cũng cần cái duyên vậy.

Hoàng Văn Cường – “Vua cổ vật” Sài thành

Dòng máu của đại gia đình buôn bán đồ cổ giúp Hoàng Văn Cường sớm nhận biết giá trị của cổ vật. Từ rất sớm, ông đã đam mê thú chơi tao nhã nhưng đầy giá trị nhân văn trên. Những ngày còn làm thầu phế liệu, Hoàng Văn Cường có cơ hội được tiếp xúc với những bảo vật mà không phải ai cũng có thể nhìn ra giá trị không tưởng của chúng. Dần dần, Cường nhận ra rằng, trong đám phế liệu mình thu gom có những thứ không thể bán đi mà phải cất giữ.

Ông “vua” đồ cổ cùng chiếc long sàng dành cho vua chúa thời Nguyễn

Khi căn nhà nhỏ 3 tầng trên phố Đông Du, (Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) của ông chật cứng cổ vật, ông mua một căn nhà mới ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh để lưu giữ cổ vật ở đó. Hiện căn nhà này đang chứa tới 2.000 cổ vật. Các món cổ vật gốm sứ, từ những vật dụng bé ly ti đến kích thước lớn đều có tuổi thọ lên đến cả mấy ngàn năm. Ngoài ra, còn có những tượng phật, ống điếu, bình vôi và vô số ngọc ngà châu báu vô giá như cành vàng lá ngọc, ngọc bội, bình ngọc, có tuổi đời không dưới mấy trăm năm.

Ông thường tâm niệm: “Cổ vật là những di sản văn hóa ngàn đời của dân tộc. Nó không phải để bán mà để ngưỡng vọng, lưu giữ như một minh chứng cho nền văn hóa ngàn năm của dân tộc. Căn nhà của ông bây giờ trở thành điểm đến của du khách trong và ngoài nước, trong đó có cả những vị nguyên thủ quốc gia của các nước.

Trần Quốc Đoàn – “Vua cổ vật” miền Tây

Giới chơi đồ cổ gọi Trần Quốc Đoàn, người đang sở hữu hàng trăm món đồ cổ quý giá là “Vua bình vôi cổ đất miền Tây”. Đặc biệt, ông có bộ sưu tâp bình vôi cổ độc nhất vô nhị.

Ở tuổi 54, ông Đoàn như một nhà nghiên cứu về các các món đồ cổ đủ loại: từ bình đất nung cho đến gốm men xanh, nâu, vàng, trắng, từ bình Bát Tràng cho đến bình Trung Quốc, bình Chăm,…

Hiện nay bộ sưu tập “ông bình vôi” của ông Đoàn có trên 230 cái với đủ loại kích cỡ, màu sắc và chất liệu, hầu hết được sản xuất từ thế kỷ 18 và 19 ở Việt Nam, Trung Quốc, Chăm, Khmer,… Hầu hết các “ông bình vôi” đều có quai xách, được chạm vẽ họa tiết nhiều loài hoa, long, lân quy, phụng, hổ,… Bình vôi nào cũng có cái miệng để đổ vôi vào và lấy vôi ra ăn bằng cây chìa vôi (được làm bằng đồng, phía trên có nút gù, vừa để cầm, vừa để bịt kín miệng bình vôi không cho gió lọt vào làm đông vôi).

Ngoài ra, ông Đoàn còn sở hữu trên 100 tấm Sắc phong là những tấm văn bản do vua chúa triều Nguyễn phong thưởng cho các vị quan thần, bộ men Lâm Quế trên 100 món gồm: tô, chén, đĩa, tách,… có từ thời vua Gia Long, cùng vài trăm món cổ vật khác từ các loại chóe rượu, bình hoa, mặt rồng, đèn Tây.

Ông Đoàn chỉ có một nguyện vọng là sưu tầm và lưu giữ lại những cổ vật, kỷ vật gia truyền của người Nam Bộ xưa, góp phần lưu giữ những nét văn hóa truyền thống để con cháu thế hệ sau này biết đến.

Nguồn: baomoi.com

Quốc hiệu Việt Nam qua các thời đại

Quốc hiệu luôn là một trong những cái tên thiêng liêng nhất đối với mỗi dân tộc, mỗi con người. Quốc hiệu khẳng định sự tồn tại và chủ quyền của một quốc gia, thể hiện ý thức và niềm tự hào của mỗi dân tộc cũng như sự bình đẳng với các nước khác trên thế giới.

Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc người Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.

Do nhu cầu trị thủy, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua – mà sử cũ gọi là Hùng Vương – và con cháu ông nhiều đời sau vẫn nối truyền danh hiệu đó. Thời gian tồn tại của nước Văn Lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.

Năm 211 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng cho quân xâm lược đất đai của toàn bộ các nhóm người Việt, Thục Phán – thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống quân Tần. Năm 208 trước Công nguyên, quân Tần phải rút lui. Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc (tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt).

Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà – vua nước Nam Việt, đưa quân đánh chiếm Âu Lạc, cuộc kháng chiến của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ sau đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia Âu Lạc thành nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên Âu Lạc trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của người dân.

Mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân (Đất nước bền vững vạn mùa Xuân), khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.

Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đình Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng Đế, lấy tên hiệu Đinh Tiên Hoàng và cho đổi tên quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt cực lớn, lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu). Quốc hiệu Đại Cồ Việt duy trì suốt thời Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).

Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước là Đại Việt (nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần.

Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua Trần Thiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).

Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Đại Việt (giống như tên quốc hiệu Đại Việt từ năm 1054 thời Lý đến hết thời Trần). Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1801).

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”. Đây là lần đầu tiên hai chữ “Việt Nam” được sử dụng với tư cách Quốc hiệu, được công nhận hoàn toàn về ngoại giao.

Tuy nhiên, hai chữ “Việt Nam” đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ thế kỷ XIV, hai chữ “Việt Nam” xuất hiện lần đầu tiên ở tiêu đề cuốn sách “Việt Nam thế chí” (ghi chép về các đời ở Việt Nam) của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc (theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, thế kỷ XIX).

Trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi (soạn năm 1434) cũng đã nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam “vua đầu tiên (của nước ta) là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam, làm tổ Bách Việt”.

Hai chữ Việt Nam còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), như trong tập “Trình tiên sinh quốc ngữ văn” có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Trong tập “Sơn hà hải động thường vịnh” (Vịnh về núi non sông biển), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã 4 lần nhắc đến hai chữ Việt Nam. Rõ hơn, trong các bài thơ gửi trạng Giáp Hải, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang lại/ Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam”, còn trong bài gửi trạng Nguyễn Thuyến có câu: “Tiền đồ vĩ đại quân tu ký/ Thùy thị công danh trọng Việt Nam”.

Trên nhiều tấm bia, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy hai chữ “Việt Nam”, như trên tấm bia khắc ở chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương) năm 1558, có câu “Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ”, bia chùa Cam Lộ (Phú Xuyên, Hà Tây), năm 1590, có câu “Chân Việt Nam chi đệ nhất”.

Thời Lê Trung Hưng (1533-1787), nước ta (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) trở lại tên Đại Việt, song hai chữ “Việt Nam” xuất hiện khá nhiều trong văn bia có niên đại sớm như: Bia chùa Thiên Phúc (làng Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm 1648), bia làng Phú Mẫn (thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm 1649), bia chùa Phúc Thánh (làng Mộ Đạo, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, soạn năm 1664) phần bài Minh có câu “Việt Nam cánh giới, Kinh Bắc thừa tuyên”, bia chùa Am Linh (làng Hà Lỗ, xã Liên Hà, Đông Anh, Hà Nội, soạn năm 1670).

Bia Thủy Môn Đình (soạn năm 1670) ở biên giới Lạng Sơn do trấn thủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị thứ tám (1670) có câu: “Việt Nam hầu thiệt trấn Bắc ải quan” (Cửa ải phía Bắc Việt Nam). Ngô Thì Nhậm (1746-1803), một tri thức lớn của nước ta ở thế kỷ XVIII cũng nhận mình là “kẻ hậu học của Việt Nam”.

Tất cả các từ “Việt Nam” trên đây chỉ là danh xưng, thể hiện ý thức của các tầng lớp quan lại và nhân dân về sự tồn tại lâu đời và liên tục của một quốc gia của người Việt ở phương Nam. Đó chưa phải là quốc danh hay quốc hiệu. Chỉ đến năm 1804, danh xưng “Việt Nam”, mới trở thành quốc hiệu, bởi nó được hình thành một cách bài bản hay theo một quy định thống nhất. Điều này được Gia Long nêu rõ trong tờ Chiếu: Đặt Quốc hiệu là để khẳng định sự hiện diện và trường tồn của người Việt ở dải đất phương Nam… “các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang (vùng đất nóng, khí hậu nhiệt đới gió mùa), gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước: nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng”.

Đặt quốc hiệu là quy luật của một thể chế “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ sự thống nhất”; là để khẳng định chính danh, chính phận của bậc đế vương “nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới”; có định ngày (17/2) có lễ thức đặt quốc hiệu (kính cáo Thái miếu) và lệnh cho triều thần bố cáo với nhân dân cả nước, với các nước láng giềng chính thức từ bỏ tên “An Nam” mà phong kiến Trung Quốc áp đặt.

Gia Long đặt quốc hiệu Việt Nam là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, “biết người biết ta”, trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước.

Đến đời vua Minh Mạng, quốc hiệu được đổi thành Đại Nam (năm 1838). Dù vậy, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.

Việc đặt quốc hiệu Việt Nam tạo niềm tự hào cho các cộng đồng cư dân Việt. Đây chính là sức mạnh tinh thần lớn lao để nhân dân duy trì bền bỉ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong suốt 80 năm bị xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp, để đến mùa thu năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ra đời một quốc hiệu mới, một thể chế mới. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946.

Sau khi đất nước thống nhất, ngày 2/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa quốc hiệu Việt Nam trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.
Nguồn: http://www.dvs.daivietedu.org

Hai chữ “Việt Nam” trong thơ của chúa Nguyễn Phúc Chu

Khi một người bạn báo tin cho tôi: “Nhà sưu tập Trần Đình Sơn vừa mua được một chiếc tô sứ ký kiểu, vẽ phong cảnh sơn thủy kèm bài thơ ‘Hà Trung yên vũ’. Cuối bài thơ có ghi ba chữ Hán ‘Đạo nhân thư’, là dấu hiệu cho thấy đây là thơ của chúa Nguyễn Phúc Chu và món đồ này do chúa ký kiểu. “Rất quý hiếm”, tôi vội liên lạc với ông Sơn để xác minh. Ông Trần Đình Sơn gửi cho tôi hai bức hình chụp chiếc tô này, kèm lời “thẩm định”: “Đây đúng là món đồ do chúa Nguyễn Phúc Chu ký kiểu. Bài thơ ‘Hà Trung yên vũ’ là bài thơ thứ năm và cũng là bài thơ mới nhất của chúa được phát hiện trên đồ sứ ký kiểu”.

1. Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725) là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái và vương phi Tống Thị Lĩnh. Ông được đình thần tôn lên kế vị Nguyễn Phúc Thái vào năm 1691, trở thành vị chúa Nguyễn thứ sáu trị vì Đàng Trong. Ông cũng là một người sùng mộ đạo Phật và có nhiều đóng góp cho việc hưng nghiệp Phật giáo ở Đàng Trong. Năm 1694, chúa cho người sang Quảng Đông mời hòa thượng Thạch Liêm sang Thuận Hóa thuyết pháp về đạo Phật và lập trai đàn ở chùa Thiên Mụ để cầu siêu và tịnh độ cho binh dân xứ Thuận Hóa. Ông quy y với hòa thượng Thạch Liêm, phát tâm thọ giới Bồ tát tại gia vào năm 1695 và được hòa thượng Thạch Liêm ban cho pháp danh Hưng Long, đặt hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Vì thế, khi sáng tác thi văn, ông thường ghi ba chữ Đạo nhân thư ở cuối các tác phẩm của mình.

Đặc biệt, Nguyễn Phúc Chu rất thích đặt làm các món đồ sứ ký kiểu ở Trung Hoa, trên đó, có đề các thi phẩm của ông, kèm hình vẽ minh họa nội dung các thi phẩm ấy. Đến nay, giới sưu tập đồ sứ ký kiểu đã sưu tầm được nhiều chiếc tô, hiệu đề Thanh ngoạn, có đề các bài thơ chữ Hán của chúa Nguyễn Phúc Chu vịnh các cảnh đẹp ở vùng đất Thuận – Quảng. Đó là những bài thơ ‘thất ngôn bát cú’, viết thành 10 dòng, gồm dòng tiêu đề, 8 dòng nội dung và dòng lạc khoản cuối cùng ghi ba chữ Đạo nhân thư. Cạnh mỗi bài thơ là một bức tranh ‘sơn thủy – nhân vật’, vẽ cảnh sắc, địa danh mà bài thơ miêu tả. Đây là lối trang trí ‘nhất thi, nhất họa’ rất phổ biến trên đồ gốm sứ phương Đông lúc bấy giờ.

Đọc bài thơ Hà Trung yên vũ trên chiếc tô sứ, tôi bất ngờ nhận thấy ở đầu câu thơ thứ 7 có hai chữ Việt Nam. Đây là điều rất thú vị, bởi lẽ, trong 5 thi phẩm của chúa Nguyễn Phúc Chu viết trên đồ sứ ký kiểu được ghi nhận từ trước đến nay, thì đây là lần thứ hai có sự hiện diện của hai chữ Việt Nam: Lần thứ nhất là trên chiếc tô đề bài thơ Ải Lĩnh xuân vân (Mây xuân trên Ải Lĩnh). Toàn văn như sau: “Việt Nam xung yếu thử sơn điên. Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên. Đãn kiến vân hoành tam tuấn lĩnh. Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên. Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết. Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền. Duy nguyện hải phong xuy tác vũ. Chính nghi thiên lý nhuận tang điền” (Xung yếu nước Nam có núi này. Khác chi đất Thục điệp non xây. Bóng giăng, chỉ thấy ba tầng lớn. Người ở, nào hay mấy đỉnh mây. Mi tóc lạnh, dù không tuyết rụng. Áo xiêm ngâm, dẫu chẳng nguồn vây. Chỉ mong gió bể đem mưa tới. Muôn dặm dâu xanh bát ngát bày).

Tô sứ đề bài thơ Ải Lĩnh xuân vân của chúa Nguyễn Phúc Chu

Ải Lĩnh là tên cũ của dải núi nằm giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng ngày nay. Trên núi có xây dựng cửa ải nên gọi là Ải Lĩnh. Dân gian thường gọi là Ngải Lĩnh vì trên núi này có mọc nhiều cây ngải, tương truyền đến mùa hoa nở, gió thổi bay xuống biển, cá ăn được sẽ hóa thành rồng. Năm 1826, vua Minh Mạng cho xây lại cửa ải, đặt tên là Hải Vân quan, từ đó, quen gọi là núi (hay đèo) Hải Vân. Sách Ðại Nam nhất thống chí, bản in thời Duy Tân (1907 – 1916) có khắc in bốn câu đầu của bài thơ này nhưng trong các câu phá thừa có khác mấy chữ so với bài thơ viết trên đồ sứ ký kiểu. Sách này cũng xác nhận tác giả bài thơ trên là Hiển Tông Hoàng Đế, tức là chúa Nguyễn Phúc Chu.

2a,2b: Bài thơ Ải Lĩnh xuân vân trên tô sứ ký kiểu

Lần này, hai chữ Việt Nam lại xuất hiện trên chiếc tô đề bài thơ Hà Trung yên vũ (Mưa bụi ở đầm Hà Trung). Toàn văn như sau: “Hải khí sơn phong táp táp kinh. Tiệm khan yên thấp tán thiên thanh. Ngư đăng kỷ điểm tri giang ngạn. Lữ khách lạc tiêu thính vũ thanh. Thiền tụng bất văn u khánh vận. Hương tư nan xích cổ nhân tình. Việt Nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh. Dục thiến đan thanh tả vị thành (Sóng trào gió rét nghĩ mà kinh. Mù tỏa dần tan mây trắng xanh. Bến cũ đèn chài thấp thoáng điểm. Mưa buồn lữ khách lắng thâu canh. Phật kinh không vẳng dư âm khánh. Quê cũ ai hay nỗi nhớ mình. Việt Nam cũng có Tiêu Tương cảnh. Muốn vẽ mà sao vẽ chẳng thành).


Tô sứ đề bài thơ Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu

Bài thơ Hà Trung yên vũ trên tô sứ ký kiểu

Hà Trung là đầm nước lớn ở huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), nối thông với phá Tam Giang và đầm Cầu Hai. Đây từng là một thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế. Ngày trước, vua chúa nhà Nguyễn và các tao nhân mặc khách thường đi thuyền về Hà Trung, ngắm cảnh non nước, làm thơ đề vịnh và thưởng thức hải sản trong đầm.

2. Trước nay, các nguồn sử liệu chính thống đều khẳng định hai chữ Việt Nam được chọn làm quốc hiệu của nước ta vào năm 1804, dưới triều vua Gia Long. Theo sử liệu Trung Hoa, khi vua Gia Long phái sứ thần đi cầu phong và xin đổi quốc hiệu nước ta thành Nam Việt. Vua Gia Khánh của nhà Thanh đã không đồng ý, vì cho rằng “địa danh Nam Việt bao hàm rất lớn, khảo sử xưa hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây đều nằm ở trong đó… Nguyễn Phúc Ánh cầu phong quốc hiệu Nam Việt, rõ ràng tự thị võ công muốn đòi xin thêm đất”. Vì thế, trong tờ dụ các quân cơ đại thần của Thanh triều vào ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (26/5/1803), vua Gia Khánh dụ rằng: “Việc xin đặt tên nước là Nam Việt, thì nước này trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An Nam; vậy Thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ Việt Nam; lấy chữ Việt để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ Nam để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều”. (Hồ Bạch Thảo, Những sử liệu liên quan đến việc đặt tên nước Việt Nam, www.talawas.de, ngày 26.8.2005).

Trong khi đó, sách Đại Nam thực lục lại chép: “Tháng Hai (năm Giáp tí – 1804), ngày Mậu thìn, (vua Gia Long) xa giá đến kinh sư. Ngày Quý dậu vua yết ở Thái Miếu… đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh sửu đem việc cáo Thái Miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo ở trong ngoài”. Chiếu có đoạn viết: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhất kỷ 1).

Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã công bố tư liệu cho thấy hai chữ Việt Nam đã xuất hiện trong các thư tịch cổ của nước ta sớm hơn nhiều thời điểm 1804. Cụ thể, hai chữ Việt Nam đã xuất hiện trên văn bia chùa Bảo Lâm (viết năm 1559), văn bia chùa Cam Lộ (viết năm 1590), văn bia đình Thủy Môn (viết năm 1670) ở Đồng Đăng (Lạng Sơn). Cách đây hơn 15 năm, PTS. Đỗ Bang cũng đã công bố một bản tuyên cáo về việc đổi quốc hiệu của nước ta từ An Nam sang Việt Nam trong tác phẩm Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích, ghi việc “vâng mệnh vua soạn thảo bản tuyên cáo về quốc hiệu mới”. Vì Phan Huy Ích là văn thần thân tín của vua Quang Trung nên PTS. Đỗ Bang cho rằng việc đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam có từ triều Tây Sơn (Đỗ Bang, Quốc hiệu nước ta có từ bao giờ, Thế Giới Mới, số 92, tháng 5/1994). Những phát hiện trên cho thấy từ lâu, hai chữ Việt Nam đã được ông cha ta dùng để chỉ cương vực của đất nước.

Trở lại với hai chữ Việt Nam viết bằng Hán tự trong hai bài thơ Ải Lĩnh xuân vân và Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Trước nay, khi dịch hai chữ này trong bài thơ Ải Lĩnh xuân vân, phần lớn các nhà dịch thuật Hán Nôm đều cho rằng hai chữ Việt Nam này không chỉ quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ, vì đến năm 1804, vua Gia Long mới chọn hai chữ Việt Nam làm quốc hiệu nước ta. Vì thế, họ dịch hai chữ Việt Nam này là “đi/vượt về phía Nam” hay “vùng đất phương Nam của nước Việt”. Tuy nhiên, bản dịch sách Đại Nam nhất thống chí (Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận Hóa, 1992) thì cho rằng hai chữ này chỉ tên nước Việt Nam, khi dịch câu: “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên” là “Núi này ải hiểm đất Việt Nam”.
Nay với việc xuất hiện bài thơ Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu trên chiếc tô sứ ký kiểu mà ông Trần Đình Sơn vừa mới sưu tầm được, trong đó có câu: Việt Nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh (Việt Nam cũng có cảnh Tiêu Tương), tôi cho rằng chúa Nguyễn Phúc Chu đã không dùng chữ Việt Nam với ý nghĩa là “đi/ vượt về phía Nam” hay “vùng đất phương Nam của nước Việt” như nhiều người từng nghĩ. Một vị chúa đã chủ trương xóa tên nước Chiêm Thành để đổi làm trấn Thuận Thành (về sau đổi làm phủ Bình Thuận); chủ trương chia đất cũ của Chân Lạp thành hai dinh: Phiên Trấn và Trấn Biên, nhằm xóa bỏ tất cả những ảnh hưởng còn sót lại của hai vương quốc lân bang đã bị các triều đại Đại Việt thôn tính, thì việc đặt cho vùng đất do các chúa khai phá và cai quản ở Đàng Trong một quốc hiệu mới là Việt Nam, không phải là một khả năng không được tính đến.
Cũng cần nhắc lại rằng, vào năm 1701 chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Hoàng Thần và Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa để cầu nhà Thanh phong cho ông làm vua một quốc gia riêng biệt, tách hẳn khỏi Đàng Ngoài, để thấy cái ước vọng lập cho mình một quốc gia riêng, có quốc hiệu riêng, đã hiện hữu mạnh mẽ trong tâm trí của Nguyễn Phúc Chu như thế nào!
Vậy thì đã đến lúc nên đặt lại vấn đề: Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào? mà nhiều nhà sử học Việt Nam đã nêu ra và đã gây nên những cuộc tranh luận học thuật rất thú vị trên diễn đàn sử học nước nhà vào những năm 1990 của thế kỷ trước. Mong lắm thay!

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Gốm men trắng thế kỷ 11 – 14 (phần 2)

Gốm men trắng trên hiện vật bát, đĩa, chén:

Bát: Men trắng xám đường kính 16,5 cm, cao 6 cm, gờ miệng viền tròn, đế nhỏ, đáy lõm để mộc, trong lòng in nổi hoa lá và 5 dấu kê. Lại có bát men trắng xám, đường kính miệng 21 cm, cao 9,5 cm, gờ miệng vê tròn, thành ngoài chia múi hình cánh sen, đế thấp, đáy mộc. Trong lòng in nổi rồng mây và hoa lá.

Chén: Có nắp gồm 3 chiếc dính nhau, 3 nắp chén cũng dính nhau, cao 4,7 cm. Trên mặt nắp chạm khắc 3 hình chim phượng bay, khuôn trong viền tròn, trên thân và nắp đắp nổi bông hoa nhỏ, lòng và đáy để mộc, men trắng ngà đã bong nhiều chỗ. Có lẽ đây là một loại chén thờ.

Đài sen: Men trắng xám cao 14 cm, đường kính miệng 11,5 cm cũng là một loại hình hiếm gặp. Cấu tạo đài sen gồm nhiều phần với miệng hình đĩa, lòng phẳng khắc hoa lá không men, xung quanh chạm nổi 4 băng cánh sen, chân cao hình con tiện nhiều cấp.


Đĩa sen:

Đều thuộc loại đồ thờ, lòng phẳng khắc hoa văn trang trí, không phủ men, thành ngoài chạm nổi 2 – 3 lớp cánh sen, cánh to xen cánh nhỏ. Đĩa sen men trắng ngà, cao 2,3 cm, đường kính miệng 9,7 cm, gờ miệng phẳng, trong lòng khắc một cành hoa lá sen không men, thành ngoài chạm 2 băng cánh sen nổi.

Có đĩa sen khác lớn hơn, cao 5,8 cm, đường kính miệng tới 15,7 cm, gờ miệng phẳng, trong lòng khắc một hình rồng Lý và 2 cành lá cùng một băng hình xoắn. Thành ngoài chạm khắc 3 băng cánh sen. Chân đế cao, trổ thủng ô hình chữ nhật, chạm khắc những hình “em bé của thế giới cực lạc” với tư thế 2 chân quỳ, 2 tay nâng, đầu nghiêng. Đây là loại đĩa sen có kiểu dáng và trang trí tương tự loại đĩa sen gốm hoa nâu và đĩa sen men xanh lục.

Đĩa: Men trắng ngà cao 4 cm, đường kính miệng 14,8 cm, miệng loe, gờ uốn, thành vát, đế thấp, đáy mộc. Trong lòng in nổi băng văn mây hình khánh với dải đuôi cong nhọn và 5 dấu kê.

Khuôn đúc: Ở khu vực Hoàng thành Thăng Long, trước đây đã tìm thấy những khuôn đúc bằng gốm men trắng, có cả phần lõi và vỏ. Khuôn có vỏ hình hộp tròn, lõi hình bông hoa 6 cánh hay 8 cánh, in nổi hình rồng Lý và hoa chanh 4 cánh. Phần trong vỏ khuôn và lõi đều không men. Những khuôn gốm này chỉ cao 1,5 cm – 2 cm và đường kính từ 5,7 cm – 7,1 cm, nhưng hoa văn rồng và hoa chanh đều rất tinh xảo.

Gốm men trắng trên hiện vật Liễn, thạp, thủy chùy:

Liễn: Gốm men trắng có nắp tạo dáng hình quả dưa, thân chia múi nổi. Nắp liễn có chỏm hình búp sen. Trên nắp và vai chạm khắc băng cánh sen nổi và 6 núm ngang, cùng một băng các bông hoa tròn. Liễn men trắng ngà hiện trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một đại diện tiêu biểu cho loại hình gốm men trắng, xương gốm mỏng, được lọc luyện kỹ, men phủ trắng ngà, lớp cánh sen nổi cũng là điển hình của phong cách trang trí thời Lý.

Thạp: Gốm men ngà rạn, hiện do Bảo tàng Hà Nội lưu giữ, cao 37,5 cm, đường kính miệng 22 cm, có kiểu dáng giống như thạp gốm hoa nâu. Thạp có gờ miệng vát, vai xuôi, thân hình trụ trên to dưới nhỏ. Vai chạm khắc băng cánh sen nổi, cánh to xen nhỏ và 5 núm ngang, thân khắc chìm 2 băng sen dây kiểu hoa bổ dọc, các cặp cánh đối xứng.

Thủy chùy: Men ngà xám, là loại dùng đựng nước rửa bút lông sau khi viết, chỉ cao 4,5 cm và đường kính miệng 3,6 cm. Thủy chùy tạo hình một bông sen nở với 4 lớp cánh nổi, chân đế loe, đáy mộc.

Gốm men trắng trên các hiện vật khác:

Những đồ gốm men trắng thời Trần đã gặp các kiểu dáng tương tự thời Lý, ngoài ra còn thấy bình men trắng ngà, miệng loe, cổ cao, thân dáng choé, cổ có băng hoa nổi, viền đế tô men nâu, cao 40,6 cm, đường kính miệng 20,3 cm. Hũ có nắp, trang trí nổi băng cánh sen, vòng tròn nhỏ và 4 núm ngang với đặc trưng của hoa văn thời Lý – Trần.

Thống: Gốm men trắng ngà, hiện do Bảo tàng Nam Định lưu giữ, cao 45 cm, đường kính miệng 26,5 cm, gờ miệng tròn, thân tạo dáng bông hoa cúc, đáy bằng để mộc. Trên vai đắp nổi 2 băng cánh sen.

Trong các di tích, phế tích khai quật được ở khu vực thành Thăng Long, phần lớn chỉ là những mảnh của các loại đồ gốm gia dụng, ít gặp những tiêu bản nguyên lành. Song, đó chính là chứng tích về cuộc sống của con người thời Lý – Trần, cũng như những bằng chứng đích thực về dòng gốm men trắng dưới thời Lý-Trần. Gốm men trắng thời Lý – Trần có thể xem như dòng gốm bạch định ở Việt Nam và rất khác biệt so với Trung Quốc bởi xương gốm dày, thô, men không sáng bóng.

Các khu vực sản xuất gốm men trắng:

Khu vực sản xuất gốm men trắng có lẽ là vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Hà Nội. Gốm men trắng thời Lý thường được phủ dày và có màu trắng như nước gạo nếp nhưng sang thời Trần phổ biến là màu trắng ngà, lớp men mỏng không còn độ sâu lắng như trước nữa.
Gốm men trắng ngà thời Lý – Trần cũng chính là động lực cho sự phát triển đặc biệt của gốm men trắng thời Lê Sơ với những sản phẩm trang trí nổi hình rồng, phượng hay dây hoa lá,…. Gốm men trắng thời Lý-Trần đóng góp những minh chứng mới lạ về truyền thống riêng biệt của gốm Việt Nam.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Đồ gốm men trắng thế kỷ 11 – 14 (phần 1)

Gốm men trắng cùng các loại men khác tạo nên sự độc đáo của gốm thời Lý Trần:

Bên cạnh loại đồ gốm đất nung mang tính chất trang trí kiến trúc, thời Lý –Trần còn có nhiều loại hình thuộc các dòng gốm men khác như gốm men trắng, men ngọc, men nâu mà phần lớn là đồ gia dụng. Đây chính là loại sản phẩm lưu hành rộng khắp đất nước, đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày của các tầng lớp cư dân, từ cung đình đến bình dân. Những đồ gốm này cũng thể hiện một trình độ cao, tiêu biểu về kỹ thuật cũng như chất lượng mỹ thuật trong khâu tạo hình và trang trí của nghề gốm ở nước ta.

Tại kinh thành Thăng Long, bên cạnh những lò gốm chuyên sản xuất vật liệu xây dựng và trang trí kiến trúc còn có những lò gốm sản xuất đồ gốm men. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia hiện lưu giữ và trưng bày nhiều loại phế vật lò gốm, trong đó có nhiều chồng dính bát đĩa gốm men ngọc, men trắng và nâu. Dựa trên các hiện vật đã thu thập được, có xuất xứ từ các di tích của thành Thăng Long, chúng ta hãy cùng xem về dòng gốm men trắng độc đáo này.

Gốm men trắng ngà:

có thể coi là một dòng gốm đặc sắc, loại hình và trang trí có nhiều trường hợp tương đồng với loại men nâu và men ngọc, niên đại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Loại hình chính gồm có ấm, bát, bình, chén, đài sen, đĩa, khuôn đúc, hũ, lọ, liễn, thạp, thống,… Hoa văn trang trí thể hiện kết hợp giữa chạm đắp nổi và khắc chìm. Đề tài trang trí phổ biến có băng cánh sen nổi, cánh to xen cánh nhỏ, băng hoa nổi, rồng giun uốn khúc kiểu thắt túi, hoa dây, hoa chanh, hình tháp, tiên nữ, phượng, sóng nước, vòng tròn nhỏ, vạch đứng song song, mây hình khánh.

Những đại diện tiêu biểu là loại ấm rượu men trắng ngà, cao 21,1 cm, miệng viền tròn, thân chia múi hình cánh hoa, vòi hình đầu rồng, quai hình chim vẹt ngủ, vai chạm nổi băng cánh sen đều đặn, cánh to xen cánh nhỏ.

Ấm rượu khác lại có dáng quả dưa, cao 20,4 cm, miệng loe cổ eo cao tạo nhiều ngấn, vòi ngắn, vai đắp nổi cánh sen, thành ngoài chạm khắc chìm hoa dây và chạm nổi băng sóng nước quanh chân, đáy lõm để mộc, men ngà rạn. Đây cũng là một trong số mẫu ấm thời Lý kết hợp tài khéo giữa tạo dáng và trang trí.

Chiếc ấm rượu khác lại có nắp đầy đủ, cao 22 cm, nắp có chỏm búp sen, còn ấm có gờ miệng tròn, thân hình cầu, đáy mộc, chân tạo ngấn con tiện, vòi ấm hình đầu rồng, quai hình chim vẹt, nắp và vai chạm nổi băng cánh sen.

Ấm trà chất liệu gốm men trắng ngà:

Chiếc ấm trà nhỏ thể hiện dáng tròn dẹt, cao 11,3 cm, thân tạo 8 múi nổi, chắc khoẻ tựa dáng quả bí ngô, vai và nắp chạm nổi băng cánh sen, men phủ trắng ngà. Cũng có loại ấm rượu với kích thước nhỏ, chỉ cao 7,6 cm, có miệng uốn, thân chia 8 múi dọc, chân đế thấp và rộng, vòi ngắn, quai hình chim vẹt, vai đắp nổi băng cánh sen, men trắng ngà.

Ngoài các dáng ấm kể trên còn xuất hiện loại ấm đặc biệt, tương đồng với ấm gốm hoa nâu cùng thời. Loại ấm này được tạo dáng giống như ghép một đĩa cao chân với một bát sâu lòng. Miệng ấm hình đĩa, cổ cao hình trụ với các đoạn hình đốt trúc, thân chia múi tạo hình bông sen nở, các đầu cánh vượt lên vai, uốn cong đều đặn. Vòi cao, quai cong hình khuyên, mặt nắp và vai chạm nổi băng cánh sen.

 

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

9 điều cơ bản cần biết về dòng gốm hoa nâu

1. Gốm hoa nâu được các chuyên gia gốm sứ thống nhất để mô tả một loại đồ gốm có trang trí hoa văn bằng men mầu nâu.

Thạp gốm hoa nâu thời Trần (thế kỷ XIII – XIV)

 2. Gốm hoa nâu thuộc loại sành xốp dầy, xương gốm thô và nặng được nung từ 1000 đến 1300 độ C.

3. Xuất hiện từ cuối thời Lý (thế kỷ XII) nhưng phát triển rực rỡ nhất dưới thời Trần (thế kỷ XIII – XIV)

4. Đa số hoa văn trên gốm hoa nâu được tạo bằng kỹ thuật cạo xương gốm khi mới phủ men nền, sau đó người thợ gốm dùng bút lông vẽ hoa văn mầu nâu trên phần đã được cạo, hay vạch vẽ hoa văn lên sản phẩm trên nền men nền rồi đem nung.

5. Hai nơi sản xuất gốm hoa nâu chính là ở vùng Thiên Trường (Nam Định) và Hoàng Thành Thăng Long.

6. Đề tài trang trí chủ đạo là sóng nước và hoa sen.

7. Nghệ thuật trang trí trên gốm hoa nâu được vẽ theo lối tả thực, gần gũi với cuộc sống, phản ánh tư tưởng của thời đại.

Mảnh thạp trang trí cảnh tập luyện võ nghệ thời Trần

 8. Vào cuối thời Trần sang đầu thời Lê sơ bắt đầu xuất hiện loại gốm vẽ màu nâu lên xương gốm sau đó mới phủ men.

 

9. Là dòng gốm được các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đánh giá cao, được xem là dòng gốm cổ Việt Nam riêng biệt, không trộn lẫn với bất cứ một dòng gốm cổ nào trên thế giới.

Tìm hiểu cách thức sử dụng trống đồng Đông Sơn qua tư liệu khảo cổ học và dân tộc học

Trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của nền văn hóa Đông Sơn. Trong 90 năm qua, kể từ ngày phát hiện văn hóa Đông Sơn, trống đồng Đông Sơn luôn được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu về tất cả các khía cạnh. Tuy nhiên, về chức năng cũng như cách thức sử dụng của trống đồng Đông Sơn vẫn chưa thực sự đồng nhất các quan điểm. Có ý kiến cho rằng, đây đơn thuần chỉ là một nhạc khí, nhưng cũng có ý kiến lại cho đây là vật biểu trưng quyền lực hoặc vừa là nhạc khí vừa là biểu trưng quyền lực. Song, xét về chung mọi ý kiến thì trống đồng là một loại nhạc khí được nhiều người công nhận hơn cả.

Là nhạc khí thì việc sử dụng nó được tiến hành ra sao? Vấn đề này cũng được các nhà khoa học dày công nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ yếu dựa trên các tư liệu về khảo cổ học và dân tộc học.

Thông qua các tư liệu về khảo cổ học

Trên khía cạnh khảo cổ học, nghiên cứu cách thức sử dụng trống đồng như một nhạc khí được căn cứ ở các đặc điểm trên bề mặt trống như cấu tạo, hiện trạng và hoa văn trên trống.

Về đặc điểm: Những trống đồng của văn hóa Đông Sơn đều thuộc loại I theo cách phân loại của F. Heger. Kết cấu trống đồng Đông Sơn gồm 4 phần: mặt, tang, thân và chân. Mặt trống hình tròn, giữa mặt đúc nổi hình mặt trời với 12 đến 18 tia, xung quanh trang trí nhiều băng hoa văn. Tang trống hơi phình ra, nối liền với mặt trống; thân trống hình trụ tròn thẳng đứng; phần chân hơi loe thành hình nón cụt. Có bốn chiếc quai chia làm hai cặp gắn vào tang và phần giữa trống, được trang trí hình bện thừng.

Như vậy vị trí đánh (gõ) trống chính là giữa mặt trống bởi chỗ này được đúc nổi hình mặt trời dày hơn để chịu nhiều tác động của vật đánh (dùi), các tia mặt trời sẽ làm lan tỏa âm thanh ra xung quanh. Tuy nhiên, phần tang và thân trống có thể cũng được đánh để tạo nên những đặc điểm âm thanh khác nhau. Ngoài ra, trống còn có một thùng cộng hưởng độc đáo: phần tang phình, phần thân và chân loe ra giúp cho trống có âm thanh vang xa, từ những âm thanh ban đầu được nhân lên về mặt cường độ. Một điều cần lưu ý là 4 quai trống được đúc đối xứng khá dày và chắc chắn. Điều này cho ta liên tưởng tới việc trống được luồn dây để treo lên trong quá trình sử dụng.

Về hiện trạng: Sau hàng nghìn năm tồn tại, nhiều chiếc trống đồng được tìm thấy còn tương đối nguyên vẹn. Xem xét về hiện trạng của nhiều chiếc trống đồng, ta thấy, phần lớn ở giữa mặt những chiếc trống, vị trí in nổi của mặt trời nhiều tia thường nhẵn, rỗ, hoặc bị biến dạng. Nguyên nhân có thể là do sự tác động thường xuyên của dùi? Điều này một lần nữa minh chứng trống chủ yếu được đánh/gõ vào vị trí chính giữa mặt trống.


Hình ảnh đánh trống trên mặt trống Cổ Loa (Nguồn: BTLSQG)

Trong nhiều tài liệu khảo cổ học, khi nhắc tới cách thức sử dụng trống đồng, phần lớn các tác giả đều dựa vào những họa tiết hoa văn trang trí trên trống. Xem xét trên bề mặt các trống như trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, trống Cổ Loa và trống Sông Đà… ta có thể thấy bề mặt mỗi chiếc trống đều có 2 cảnh người đánh trống đối xứng nhau qua tâm. Theo đó thì một dàn trống thường có 4 chiếc cạnh nhau, phía trên là bốn người trong tư thế ngồi hoặc đứng dùng một cái cây dài để gõ thẳng đứng lên mặt trống. Theo Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 1994) thì người xưa còn đào hố rộng ra rồi trống ở lơ lửng giữa hố, giúp âm thanh đã mạnh rồi lại mạnh hơn. Những hố cộng hưởng này còn thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.

Những tư liệu dân tộc học

Hiện nay, theo tác giả được biết, ở Việt Nam còn có một số dân tộc thiểu số sử dụng trống đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng, tiểu biểu như người Mường, người Lô Lô, người Pu Péo… Đây là tư liệu quan trọng để đối sánh, so sánh tìm ra phương pháp sử dụng trống đồng như một nhạc khí của cư dân Việt cổ.

Cách đánh trống đồng của dân tộc Mường hiện nay tương đối giống như mô tả trên mặt các trống đồng đã kể trên, tức là theo lối giã gạo. Người Mường cũng dùng những dùi trống dài như chày giã gạo với khoảng 3 – 4 người đứng xung quanh để đánh vào mặt trống theo hướng thẳng đứng. Xem ra, cách đánh này chủ yếu mang tính tượng trưng của một tiết tấu vũ điệu hơn là về hiệu quả âm thanh. Do đó có thể hiểu tư thế để úp nằm của nó là để tiện cho nhiều người diễn tấu cùng một lúc. Trên thực tế, người Mường cũng đặt trống trên một cái giá gỗ thấp gồm hai thanh gỗ bắt chéo hình chữ thập làm sàn kê, có 4 chân ngắn để bớt hạn chế về nguyên tắc âm thanh.

Theo cuốn Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 1997) thì phương thức diễn tấu trống đồng của các tộc khác như Lô Lô và Pu Péo tương đối giống với các dân tộc ở Hoa Nam (Trung Quốc).

Ngày nay, đồng bào Lô Lô nhiều vùng còn giữ được những bộ trống đồng, mỗi bộ gồm hai cái: trống đực (nhỏ hơn) và trống cái (to hơn). Trống có 4 quai bố trí thành từng cặp đối xứng nhau qua trục thân. Mặt và tang trang trí hoa văn nét nổi. Chính giữa mặt trống là hoa văn hình mặt trời với 12 tia. Trống đồng là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của người Lô Lô, tộc trưởng cất giữ trống đồng cho dòng họ, bảo quản bằng cách chôn xuống đất. Khi nào dùng thì mới đào lên. Khi dùng trống, họ đặt hai trống (đực và cái) treo quay mặt trống vào nhau. Người đánh trống đứng ở giữa cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống và có tới 36 điệu đánh trống. Trống đánh giữ nhịp cho các điệu múa dân gian.


Người Lô Lô ở Hà Giang sử dụng trống đồng (Nguồn: Internet)

Hiện nay, người Pu Péo chỉ dùng trống đồng trong lễ làm chay. Cũng giống người Lô Lô, trống của người Pu Péo có 1 bộ gồm 1 trống đực và 1 trống cái. Bình thường cất trống trên sàn gác. Trước khi dùng phải cúng từng chiếc trống với lễ vật là hai bát rượu, con gà. Cúng xong, đổ rượu lên mặt trống rồi mới treo trống. Trống được treo ở cạnh cửa ra vào ở gian giữa, trống đực treo bên trái, trống cái treo bên phải. Hai mặt trống quay vào nhau. Người đánh trống phải là đàn ông đứng ở giữa dùng củ chuối gõ vào hai mặt trống theo sự điều khiển của thầy cúng. Người ta đánh trống, vui múa suốt một đêm một ngày. Đồng bào tin rằng hồn ngô lúa rất sợ tiếng trống vì thế họ chỉ làm chay sau khi mùa màng đã thu hoạch xong. Nhưng nếu vì hoàn cảnh phải dùng trống sớm hơn thì chỉ được đánh ba tiếng trống thôi – trống đực đánh một tiếng, trống cái hai tiếng.

Cách đánh trống của người Lô Lô và Pu Péo mô tả ở trên cũng cho thấy một phần cách nhìn này đối với từng cặp trống đực – cái có cao độ khác nhau.

Một vài nhận xét

Như vậy có thể thấy, trống đồng là một nhạc khí, vị trí để tác động lên trống chủ yếu là trung tâm của mặt trống, nơi có hình mặt trời được đúc khá dày. Tuy nhiên để tạo ra được những âm thanh khác nhau, có thể những vị trí xung quanh đó, bảo gồm cả tang và thân trống cũng được tận dụng để tác động.

Về tư thế, trống đồng được đánh dựa trên 2 kiểu chính: thứ nhất, ngửa mặt trống lên và tác động thẳng đứng xuống trung tâm mặt trống. Phía dưới chân trống có thể được kê lên cao hoặc tạo những “hố cộng hưởng”. Tuy nhiên, cách này chủ yếu mang tính chất diễn tấu, không mang lại hiệu quả về âm thanh; thứ 2, trống được buộc dây vào quai và treo lên, người đánh dùng dùi tác động vào mặt hoặc thân và tang trống. Cách này tạo có thể tạo ra được hiệu quả về âm thanh hơn và hiện nay vẫn còn được một số dân tộc thiểu số sử dụng.

Tùy thuộc vào kiểu đánh trống mà vật tác động lên trống (dùi) cũng dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên, những chiếc dùi được làm bằng gỗ, đầu bọc vải để hạn chế làm biến dạng hoa văn trên trống.

Trải qua trên dưới 2000 năm, bên cạnh việc bảo lưu những nét đặc trưng từ thời Đông Sơn thì cũng có nhiều nét văn hóa đã mất, trong đó có phong tục đánh và sử dụng trống đồng. Do đó, việc phục dựng lại truyền thống đánh trống đồng ở người Việt hiện nay cũng còn nhiều quan điểm và luận giải khác nhau. Với phương pháp tiếp cận liên ngành khảo cổ học và dân tộc học, chúng ta có thể tìm hiểu về cách thức đánh trống đồng của người Việt cổ một cách tương đối toàn diện. Tuy nhiên, bài viết này chỉ có thể đưa ra những tư liệu mang tính chất gợi mở. Trong tương lai, cần có những nghiên cứu thêm về vấn đề này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Minh Huyền 1996. Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

2. Hán Văn Khẩn (Chủ biên) 2008. Cơ sở Khảo cổ học. Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Đình Khoa 1983. Các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1994. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

5. Phạm Huy Thông (Chủ biên) 1990. Dong Son Drums in Viet Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Viện dân tộc học 1987. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Nhiều tác giả 1999. Phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Nxb. Văn hóa – Dân tộc, Hà Nội.

Về gốm Đường Cồ – một loại gốm thuộc văn hóa Đông Sơn

Trong văn hóa Đông Sơn, chúng ta thường bắt gặp một thuật ngữ quen thuộc là “gốm Đường Cồ”. Vậy gốm Đường Cồ là gì? Tại sao lại gọi là gốm Đường Cồ?

Đường Cồ là một địa điểm khảo cổ học thuộc thôn Liệt Phương, xã Hoài Đức, huyện Phú Xuyên (Hà Nội). Từ kết quả khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã chú ý tới một loại hình gốm với những nét đặc trưng như kiểu miệng loe thành cong lòng máng, văn thừng thô, tạo thành những vết lõm như tổ ong, màu gốm trắng mốc, phớt hồng. Qua so sánh nhận thấy, đây là loại gốm phổ biến trong các di chỉ khảo cổ học thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn khu vực trung du và đồng bằng Bắc bộ, có sự khác biệt so với gốm ở lưu vực sông Mã, sông Cả. Từ đó, thuật ngữ “gốm Đường Cồ” bắt đầu được sử dụng để chỉ loại hình gốm địa phương tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.

Gốm Đường Cồ trắng mốc và phớt hồng tại di chỉ khảo cổ học Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội (Nguồn: Lương Thị Hà)

Gốm Đường Cồ thể hiện sự tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật chế tác gốm trong văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ. Đất sét pha cát tương đối mịn, đều để làm xương gốm được chọn, sàng lọc cẩn thận, ít tạp chất nên gốm tương đối đanh, cứng và ít thấm nước. Gốm được nung ở nhiệt độ khá cao, khoảng 900oC. Bề ngoài gốm có màu sáng: trắng đục ngả vàng, hồng nhạt hay trắng mốc. Bên trong gốm có màu xám đen đều.

Tuy nhiên, về kiểu dáng và hoa văn trang trí, nhìn chung gốm Đường Cồ có phần suy giảm đáng kể so với các giai đoạn trước. Có lẽ, những người thợ Đông Sơn đã tập trung thời gian, trí lực, công sức vào các loại hình đồ đồng nhiều hơn. Bởi lẽ, các loại hình và đồ án hoa văn đẹp mắt mà ta thấy trên đồ gốm của giai đoạn trước đều có mặt trên đồ đồng của văn hóa Đông Sơn.

Gốm Đường Cồ trong mộ Đông Sơn tại di chỉ khảo cổ học Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội

Gốm Đường Cồ phân bố chủ yếu ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, có nguồn gốc và phát triển trực tiếp từ giai đoạn văn hóa Gò Mun. Kết quả khai quật tại di chỉ Vinh Quang (Hoài Đức, Hà Nội) đã chứng tỏ điều này. Đồ gốm lớp dưới di chỉ này mang tính chất của gốm Gò Mun, càng lên các lớp trên, tần suất xuất hiện của gốm Đường Cồ càng nhiều, đến lớp trên cùng (thuộc văn hóa Đông Sơn), chỉ còn tìm thấy gốm Đường Cồ. Bên cạnh gốm Đường Cồ ở lưu vực sông Hồng, loại hình gốm địa phương của văn hóa Đông Sơn còn có gốm Đông Sơn ở lưu vực sông Mã, gốm Làng Vạc ở lưu vực sông Cả.

Như vậy, gốm Đường Cồ là một trong 3 loại gốm tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn tuy không được chú ý về hình thức như đồ đồng, song, gốm có chất lượng tốt, kỹ thuật cao hơn so với loại hình gốm lưu vực sông Mã hay sông Cả. Gốm Đường Cồ được phát triển trực tiếp từ loại gốm Gò Mun lên. Cùng với hiện vật đồng, trong văn hóa Đông Sơn, những hiện vật gốm đã phản ánh một cách khách quan đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Việt cổ giai đoạn này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia