Tag Archive | cổ vật

Đọ độ khủng của các “vua cổ vật” khắp Việt Nam

Ở Việt Nam có rất nhiều người chơi cổ vật nhưng được khâm phục về chuyên môn, đạo đức và những món đồ độc nhất chỉ có thể là “Vua cổ vật”.

Đoàn Anh Tuấn – “Vua” cổ vật hào hiệp

Ông Đoàn Anh Tuấn – Giám đốc Trung tâm UNESCO nghiên cứu, bảo tồn cổ vật Việt Nam, người hiến tặng cổ vật nhiều nhất hiện nay được mệnh danh là “Vua từ thiện cổ vật”.

Dòng họ Đoàn của ông ở phố cổ Hà Nội nổi tiếng với thú mê cổ vật. Có lẽ vì thế mà “máu” cổ vật đã ngấm vào con người ông Tuấn từ khi còn rất trẻ. Năm 1998, khi Nhà nước ban hành Luật di sản thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về cổ vật, ông Tuấn đã bán căn nhà mặt phố Trương Định để dồn tiền mua cổ vật. Thậm chí, ông còn từng hành nghề bơm vá, sửa xe đạp, xe máy, mò lên các bãi vàng để kiếm tiền mua cổ vật.

Ông Đoàn Anh Tuấn ngồi giữa căn phòng ngập cổ vật

Cổ vật được ông Tuấn bày biện khắp nhà theo niên đại. Lâu đời nhất là chiếc tủ bày các công cụ lao động sản xuất, vũ khí của người xưa, kế đến là các trang sức của nền văn hóa Đông Sơn, nhà bằng đất nung từ thời kỳ đầu công nguyên, chum, thạp thời Lý, Trần,… Những chiếc trống đồng Đông Sơn, ấm rượu đồng rèn đầu rùa thế kỷ I – III; tượng Quan âm đồng thế kỷ I được chất đầy trong căn phòng ngót nghét trăm mét vuông trên tầng 2.

Ông Tuấn cho biết, ông mua đồ cổ chỉ để chơi và hiến tặng chứ chẳng bao giờ tính đến chuyện lời lỗ. Máu cổ vật là vậy, nhưng Đoàn Anh Tuấn không bao giờ “chơi” đồ trục vớt. Ông cũng “kỵ” cổ vật Trung Quốc, chỉ thích chơi những thứ đồ mà các cụ người Việt từng dùng.

Những cổ vật được trưng bày một cách gọn gàng ngăn nắp

Được phần đông giới chơi thừa nhận là một trong những người có nhiều cổ vật nhất, nhưng Đoàn Anh Tuấn chưa bao giờ nhận mình là “vua cổ vật”. Với ông, cổ vật chính là vật chứng lịch sử, phải mang lại lợi ích văn hóa cho cộng đồng, mới là chơi cổ vật, chứ không phải cứ lao vào những món đắt tiền. Vì thế, ông liên tục mua cổ vật rồi liên tục hiến tặng lại cho các bảo tàng. Theo ông, thực chất, khi tặng – cũng như khi giúp các bảo tàng tổ chức trưng bày, là chúng tôi gửi di sản về với cuộc sống để mọi người chiêm ngưỡng, bổ sung kiến thức văn hóa truyền thống. Như vậy thì có gì phải tiếc!

Nguyễn Thanh Đạm – “Vua cổ vật” đồ đồng

Nguyễn Thanh Đạm, sinh năm 1952, ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An được mệnh danh là “vua” đồ đồng miền Trung. Hiện ông đang sở hữu nhiều cổ vật bằng đồng, trong đó có 200 chiếc mâm đồng đúc liền với những tuyệt tác được chạm khắc hết sức tinh vi, điêu luyện; bộ tượng bằng đồng, chuông đồng, khánh đồng, lư hương, đèn… có niên đại hàng trăm năm.

“Vua” đồ đồng Nguyễn Thanh Đạm luôn ý thức về việc giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc

Ông Đạm cho hay, gia đình ông có “vật gia bảo” lưu truyền qua 5 đời đó là những chiếc mâm đồng, lư hương mà bố ông trước khi mất có căn dặn: “Dù có đói, có chết, con cũng không được bán, đổi nó đi”. Cũng chính từ đó, trách nhiệm thiêng liêng đã đánh thức ông Đạm về việc gìn giữ, bảo quản và bổ sung thêm cho bộ sưu tập đồ đồng. Thời gian ông làm công nhân hóa chất ở Nghệ An, ngoài đồng lương ít ỏi, ông còn dành dụm tiền “săn lùng” cổ vật khắp mọi miền đất nước.

Tránh kẻ xấu đánh cắp, ông Đạm đã xếp gọn đồ đồng trong hòm sắt giấu kỹ trong hầm kín bởi hiện giờ, tường rào nhà ông không thể đảm bảo an toàn cho những hiện vật quý hiếm này.

Hơn 40 năm gìn giữ, sở hữu số lượng lớn bộ đồ đồng, ông Đạm rất tự hào và hãnh diễn về tài sản quý giá này. “Tôi không dám nói trong tay có tiền tỉ, hoặc hàng trăm triệu đôla. Tôi dám khẳng định rằng giá trị cổ vật đổi ra bằng tiền ít đại gia nào theo kịp tôi. Nhưng tôi không bao giờ bán hay đổi lấy một thứ gì”.

Hồ Tấn Phan – “Vua cổ vật” xứ Huế

Người dân xứ Huế gọi ông là “nhà nghiên cứu Huế”, hay “vua cổ vật”. Nhưng, ông chỉ nhận mình là “người tiên phong tìm đồ cổ trên dòng Hương Giang”… Ông “vua cổ vật” ấy là Hồ Tấn Phan, năm nay ngoài 70 tuổi, ở phường Phú Hiệp, TP Huế, người sở hữu một kho sách cùng hàng ngàn cổ vật quý có niên đại hơn 2.500 năm.

Ông Phan kể, cuộc hành trình đi tìm đồ cổ ấy khiến ông phải sớm chia tay với bục giảng. Năm 49 tuổi, cuộc truy tìm cổ vật được ông đầu tư công sức hơn bao giờ hết. Để có được những cổ vật như bây giờ, ông Phan phải săn lùng ở khắp nơi và nhiều khi bỏ ra số tiền lớn để có được cổ vật mong muốn.

Cổ vật mà mấy chục năm qua ông Phan cất công tìm kiếm đến giờ này đã chất đầy từ trong nhà ra đến ngoài vườn

Theo ông Phan, để sở hữu một kho tàng cổ vật không dễ chút nào. Riêng chuyện phải “đối phó” với những tay anh chị chuyên đi buôn đồ cổ đã rất khó khăn. Song, sau nhiều năm gắn bó với người dân vạn đò, khi vớt được thứ gì họ cũng đem bán cho ông với giá vừa phải.

Ông Phan khẳng định, mỗi khi tìm được cổ vật mới là ông phải thức ngày thức đêm để nghiên cứu giá trị của triết lý văn hóa và niên đại của cổ vật

Những cổ vật của ông được trưng bày khắp nơi, vì trong nhà không còn chỗ để nên ông đành để ngoài vườn. Ông Phan tiết lộ, hiện ông có nhiều loại cổ vật quý hiếm, có giá trị về lịch sử và khoa học. Đa số cổ vật của ông là đồ gốm Sa Huỳnh có niên đại hơn 2.500 năm.

Ông Phan khẳng định, người chơi cổ vật không chỉ cần tiền, cần sự nhẫn nại mà còn cần cả cái duyên, cũng giống như trai gái yêu nhau, sống với nhau cũng cần cái duyên vậy.

Hoàng Văn Cường – “Vua cổ vật” Sài thành

Dòng máu của đại gia đình buôn bán đồ cổ giúp Hoàng Văn Cường sớm nhận biết giá trị của cổ vật. Từ rất sớm, ông đã đam mê thú chơi tao nhã nhưng đầy giá trị nhân văn trên. Những ngày còn làm thầu phế liệu, Hoàng Văn Cường có cơ hội được tiếp xúc với những bảo vật mà không phải ai cũng có thể nhìn ra giá trị không tưởng của chúng. Dần dần, Cường nhận ra rằng, trong đám phế liệu mình thu gom có những thứ không thể bán đi mà phải cất giữ.

Ông “vua” đồ cổ cùng chiếc long sàng dành cho vua chúa thời Nguyễn

Khi căn nhà nhỏ 3 tầng trên phố Đông Du, (Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) của ông chật cứng cổ vật, ông mua một căn nhà mới ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh để lưu giữ cổ vật ở đó. Hiện căn nhà này đang chứa tới 2.000 cổ vật. Các món cổ vật gốm sứ, từ những vật dụng bé ly ti đến kích thước lớn đều có tuổi thọ lên đến cả mấy ngàn năm. Ngoài ra, còn có những tượng phật, ống điếu, bình vôi và vô số ngọc ngà châu báu vô giá như cành vàng lá ngọc, ngọc bội, bình ngọc, có tuổi đời không dưới mấy trăm năm.

Ông thường tâm niệm: “Cổ vật là những di sản văn hóa ngàn đời của dân tộc. Nó không phải để bán mà để ngưỡng vọng, lưu giữ như một minh chứng cho nền văn hóa ngàn năm của dân tộc. Căn nhà của ông bây giờ trở thành điểm đến của du khách trong và ngoài nước, trong đó có cả những vị nguyên thủ quốc gia của các nước.

Trần Quốc Đoàn – “Vua cổ vật” miền Tây

Giới chơi đồ cổ gọi Trần Quốc Đoàn, người đang sở hữu hàng trăm món đồ cổ quý giá là “Vua bình vôi cổ đất miền Tây”. Đặc biệt, ông có bộ sưu tâp bình vôi cổ độc nhất vô nhị.

Ở tuổi 54, ông Đoàn như một nhà nghiên cứu về các các món đồ cổ đủ loại: từ bình đất nung cho đến gốm men xanh, nâu, vàng, trắng, từ bình Bát Tràng cho đến bình Trung Quốc, bình Chăm,…

Hiện nay bộ sưu tập “ông bình vôi” của ông Đoàn có trên 230 cái với đủ loại kích cỡ, màu sắc và chất liệu, hầu hết được sản xuất từ thế kỷ 18 và 19 ở Việt Nam, Trung Quốc, Chăm, Khmer,… Hầu hết các “ông bình vôi” đều có quai xách, được chạm vẽ họa tiết nhiều loài hoa, long, lân quy, phụng, hổ,… Bình vôi nào cũng có cái miệng để đổ vôi vào và lấy vôi ra ăn bằng cây chìa vôi (được làm bằng đồng, phía trên có nút gù, vừa để cầm, vừa để bịt kín miệng bình vôi không cho gió lọt vào làm đông vôi).

Ngoài ra, ông Đoàn còn sở hữu trên 100 tấm Sắc phong là những tấm văn bản do vua chúa triều Nguyễn phong thưởng cho các vị quan thần, bộ men Lâm Quế trên 100 món gồm: tô, chén, đĩa, tách,… có từ thời vua Gia Long, cùng vài trăm món cổ vật khác từ các loại chóe rượu, bình hoa, mặt rồng, đèn Tây.

Ông Đoàn chỉ có một nguyện vọng là sưu tầm và lưu giữ lại những cổ vật, kỷ vật gia truyền của người Nam Bộ xưa, góp phần lưu giữ những nét văn hóa truyền thống để con cháu thế hệ sau này biết đến.

Nguồn: baomoi.com

Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa tiếp nối văn hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân- huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, được các cán bộ văn hóa của tỉnh phát hiện năm 1962. Qua 6 lần khai quật đã phát hiện hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, gốm, xương sừng… Nền văn hóa này có niên đại mở đầu vào khoảng thế kỷ XV- XIV trước công nguyên và chấm dứt thế kỷ X-IX trước công nguyên.

Dấu tích Lò – Văn hóa Đồng Đậu

Ở Phú Thọ có một số địa điểm thuộc nền văn hóa này. Đó là: Xóm Rền, Nội Gan- Kinh Kệ, Đồng Đậu con – Tứ Xã- Lâm Thao…Đây là nền văn hóa quan trọng tương ứng với thời đại tiền Hùng Vương ở Việt Nam. Việc phát hiện các di chỉ thuộc nền văn hóa này một lần nữa khẳng định Phú Thọ là một trong những cái nôi của nền văn minh trong lịch sử: văn minh Việt cổ.

Đồ gốm trong văn hóa Đồng Đậu:

Người Đồng Đậu tiếp thu những kỹ thuật, thành tựu của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá và làm gốm thành những sản phẩm bình, bát, nồi vò…nhưng khác biệt là ở chỗ người Đồng Đậu cải tiến trong loại hình đồ gốm miệng loe, bẻ xiên, vát mỏng hay trang trí hoa văn sóng nước bằng dụng cụ nhiều răng được gọi là “bút kẻ khuôn nhạc” trở thành đặc trưng không thể thiếu của văn hóa Đồng Đậu. Hoa văn trên gốm Đồng Đậu chủ yếu trang trí ở cổ hay ở vành mép miệng của đồ gốm.

Miệng bình gốm – văn hóa Đồng Đậu

Một đặc trưng khác của gốm Đồng Đậu khác so với gốm Phùng Nguyên và gốm Gò Mun là gốm Đồng Đậu thường có dấu in đan lóng mốt trong một số loại đồ đựng thuộc loại đáy bằng. Về chất liệu gốm, nếu như gốm Phùng Nguyên có màu đỏ, màu hồng nhạt thì gốm Đồng Đậu có màu xám và có độ nung cao hơn nhưng về cơ bản vẫn mang yếu tố truyền thống là đất sét pha cát và bã thực vật. Trong các di chỉ Đồng Đậu xuất hiện rất phổ biến tượng đất nung: tượng bò, tượng gà, tượng rùa…

Đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu:

Về đồ đá họ cũng biết làm rìu đá, đục đá, mũi lao xương, khuyên tai có mấu, vòng tay bằng đá ngọc nhưng đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu không chau chuốt bằng đá Phùng Nguyên và ở Đồng Đầu đồ đá xuất hiện mũi tên ba cạnh, mặt cắt tam giác hay hạt chuỗi hình “gối quạ”. Qua những lần khai quật tại các di chỉ, các nhà khảo cổ học nhận định rằng công cụ sản xuất đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu có chiều hướng giảm đi và được thay thế bằng đồ đồng.

Truyền thống cư dân vùng Phú Thọ trồng lúa nước có từ thời kỳ Phùng Nguyên thì đến Đồng Đậu một lần nữa lại khẳng định điều này. Nhiều thóc gạo đã được tìm thấy trong nhiều di chỉ và đặc biệt trong di chỉ Đồng Đậu đã tìm thấy dấu vết hạt gạo cháy.

Đồ đồng trong văn hóa Đồng Đậu:

Trong văn hóa Phùng Nguyên khai quật các di chỉ cho thấy xuất hiện nhiều những cục sỉ đồng nhỏ như hạt ngô ở Gò Bông và một số mảnh đồng nhỏ chưa định hình tại Đoan Thượng- …thì đến Đồng Đậu công cụ bằng đồng đạt đến trình độ cao. Một bước phát triển đột biến như là một cuộc cách mạng về luyện kim. Trong nhiều di chỉ phát hiện nồi nấu luyện đồng, lò nung, khuôn đúc các loại đơn hoặc kép. Hàng trăm mảnh khuôn, mảnh nồi nấu đồng, dấu vết của lò nung, nhiều tiêu bản được xem như lõi của khuôn đúc, cùng với các loại công cụ như: rìu xòe cân, giáo, lao, đao, mũi tên hai ngạnh, đũa, búa, lưỡi câu được chế tác hoàn chỉnh.

Đồ đồng – văn hóa Đồng Đậu

Qua 6 lần khai quật tại các di chỉ của Đồng Đậu đã tìm được rất nhiều loại lưỡi câu đồng, điều đó cho thấy cư dân Đồng Đậu là những người đánh cá rất giỏi vì bộ lưỡi câu đồng tìm được với các kỹ thuật phức tạp: từ đúc tạo que, đến gia công rèn nguội, chặt ngạnh, chặt mũi uốn lỗ xỏ dây đã tạo được một sản phẩm hoàn chỉnh như chiếc lưỡi câu ngày nay. Tại một số di chỉ khác của Đồng Đậu tìm được rất nhiều xương răng của các loài cá như: cá quả, cá chép, cá trắm, cá chiên, cá chuối đã chứng tỏ ưu thế về phương thức khai thác thủy sản trong đó có nghề câu cá ở thời kỳ này.

Nông nghiệp Đồng Đậu:

Với một nền nông nghiệp phát triển, kế thừa thành tựu chế tác đá gốm của người Phùng Nguyên cùng với đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đồng đã đánh dấu một bước phát triển của xã hội cư dân Đồng Đậu. Với việc khai thác các di chỉ mộ táng cho ta hiểu biết hơn về tổ chức xã hội cũng như thế giới tinh thần của cư dân Đồng Đậu như khai quật được một mộ táng đơn hay 1 mộ song táng (2 cá thể) dùng đất sét làm nền quan tài.

Dấu tích bếp nấu ăn – Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu được GS Hà Văn Tấn khẳng định:

“Đó là văn hóa của những người luyện kim, chế tác kim loại điêu luyện và lành nghề. Đó là văn hóa của những người thợ gốm tài hoa, tạo tác những khối lượng động vật độc đáo, chế tác được những đồ gốm kích thước lớn, trang trí hoa văn đẹp mang phong cách riêng của thời đại mình đang sống. Và đó cũng là văn hóa của những người biết phát huy, kế thừa những thành quả của cha ông thời Phùng Nguyên để bồi đắp, tạo lập một thế hệ mới phát triển cao hơn, biết chọn điểm nhấn quan trọng, quyết định đến sự tồn vong của cộng đồng là luyện kim và đúc đồng bên cạnh nghề chế tác đá truyền thống….”

Hiện nay tại Bảo tàng Hùng Vương đang trưng bày giới thiệu một số bộ sưu tập hiện vật Đồng Đậu. Cùng với các vấn đề đã được làm sáng tỏ của văn hóa Đồng Đậu, còn rất nhiều câu hỏi mở như: Dấu vết cư trú của cư dân Đồng Đậu, vấn đề cư trú, vấn đề phân chia giai đoạn của nền văn hóa này…đang chờ các bạn tìm hiểu và giải đáp trong tương lai.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/nghien-cuu-suu-tam/400-van-hoa-dong-dau

Bàu Tró – di chỉ truyền kỳ

(QBĐT) – Nằm gọn giữa lòng động cát cao sát phía bắc cửa biển Nhật Lệ, Bàu Tró có phong cảnh hữu tình, tĩnh lặng,… Không chỉ là hồ nước ngọt cung cấp nguồn nước sạch cho nhân dân thành phố Đồng Hới bấy lâu, Bàu Tró còn là nơi tồn tại những dấu tích cư trú và sinh sống của người nguyên thủy thời hậu kỳ đồ đá. Với ý nghĩa khoa học to lớn của Bàu Tró, các nhà nghiên cứu đã lấy tên di chỉ này để đặt tên cho một loại hình văn hóa tiêu biểu của  miền Trung, đó là “Văn hóa Bàu Tró”.

Bàu Tró (thuộc địa phận phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới ngày nay) tương truyền là bàu nước ngọt sạch nhất, sạch hơn nước giếng của người dân trong vùng. Khi chưa có nhà máy nước, người dân Đồng Hới thường uống nước Bảo Ninh chở sang. Nơi đây hoang vắng, chưa có dân cư và là nơi có miếu Long Vương, thờ thần Hà Bá nổi tiếng linh thiêng, hồ được giữ sạch sẽ, người dân chỉ đến đây lấy nước về dùng vào việc cúng giỗ chứ ít khi lấy nước Bàu Tró về dùng hàng ngày. Hiện nay, Bàu Tró không còn cảnh hoang vu, từ những động cát làm thành trì cho hồ đã có một phường dân cư sinh sống.

Mùa hè năm 1923, nhà khảo cổ học người Pháp Etienne Pette đã đến Bàu Tró khai quật một gò cát cạnh hồ và đã phát hiện có dấu vết của người xưa. Và tên gọi: Bàu Tró, một di chỉ của người Việt cổ cũng bắt nguồn từ đó. Nhà khảo cổ học Etienne Pette đã khẳng định người nguyên thủy đã đến cư trú quanh hồ Bàu Tró từ ngàn xưa và đã để lại dấu tích từ trong lòng cát. Những hiện vật thu được từ di chỉ khảo cổ học này hiện còn lưu trữ tại Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam gồm: 46 rìu đá, 140 mảnh tước, 2 hòn đá bằng thạch anh, 1 dụng cụ đá dùng để ép, 14 bàn nghiền hạt, 1 chì lưới, một đốt xương sống cá và vỏ sò, mảnh gốm…

Nhà khảo cổ cho rằng người tiền sử đã để lại các dụng cụ và rất nhiều vỏ ốc là di tích các bữa ăn của họ. Khi nền văn hóa của người nguyên thủy đã chuyển xuống ven biển, ven sông có nghĩa là họ không còn thích nghi ở trong hang động nữa. Nền văn hóa đồ đá mới phân bố khắp nơi trên đất Quảng Bình, từ bắc vào nam, từ núi rừng xuống đồng bằng. Di chỉ Bàu Tró còn khẳng định thêm một điều bí ẩn là ở thời hậu kỳ đồ đá mới, người tiền sử Bàu Tró rất thạo nghề đánh cá biển và việc tìm thấy những mũi tên bằng xương cá chứng tỏ nghề săn bắn lúc này cũng khá phát triển.

Toàn cảnh Bàu Tró nhìn từ trên cao.
Toàn cảnh Bàu Tró nhìn từ trên cao.

Cũng tại Bàu Tró, mùa xuân năm 1980, Khoa Khảo cổ Trường đại học Tổng hợp Huế (nay là Trường đại học Khoa học Huế) lại khai quật di chỉ này một lần nữa. Địa điểm khai quật nằm phía tây nam Bàu Tró, cách hố khai quật của nhà khảo cổ học Etienne Pette hơn 100m về phía tây. Hiện vật thu được gồm: 31 rìu bôn đá, 17 bàn mài, 7 chày nghiền, 3 mũi nhọn, 1 vòng, 2 phiến tước, nhiều cục thổ hoàng bị mài vẹt từ nhiều phía, 11.972 mảnh vỡ đồ gốm của nồi, niêu, bình, vò, bát, đĩa… được trang trí bằng hoa văn đấu thừng, hoa văn khắc vạch có màu đỏ, màu đen ánh chì. Và điều vô cùng lý thú là nếu năm 1923, nhà khảo cổ  Etienne Pette chỉ tìm thấy loại di chỉ cồn Cò Điệp thì nay Khoa Khảo cổ Trường đại học Tổng hợp Huế tìm thấy loại di chỉ mới đó là di chỉ Cồn Đất tại Bàu Tró. Với ý nghĩa khoa học to lớn của di chỉ Bàu Tró, các nhà nghiên cứu đã lấy tên này để đặt tên cho nền văn hóa hậu kỳ đá mới, gồm các di chỉ phân bố vùng ven biển Nghệ – Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế là “Văn hóa Bàu Tró”.

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, Văn hóa Bàu Tró là nền văn hóa tiêu biểu của miền Trung, là một trong những cội nguồn nảy sinh văn hóa Đông Sơn phía Bắc và văn hóa Sa Huỳnh ở phía Nam. Điều này còn chứng tỏ cư dân tiền sử Quảng Bình có sự giao lưu vùng rộng lớn từ Bắc đến Nam Trung bộ, phát triển liên tục từ thời kỳ đồ đá đến đồ đồng, đồ sắt.

Xung quanh 2 từ Bàu Tró, cho đến nay vẫn là một vấn đề bàn cãi chưa ngã ngũ về ngôn ngữ và lịch sử. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện Bàu Tró là di chỉ giàu về đồ gốm và giỏi về nghề gốm, nhưng các nhà ngôn ngữ học thì đoán định Bàu Tró là bàu lúa. Thêm nữa, theo truyện kể trong dân gian Đồng Hới thì Bàu Tró rất sâu, sâu không có đáy vì có người đã thử bơi bè ra giữa lòng hồ, rồi buộc đá vào dây thả xuống đo chiều sâu nhưng thả mấy cũng không thấy dây chùng lại. Lại có chuyện ly kỳ khó tin rằng, sau một trận lũ rất lớn, khi nước rút xuống có người đã lượm được những quả bưởi của vùng Trốôc Vực (Lệ Thủy) tại hai bên bờ Bàu Tró. Câu chuyện Bàu Tró đáy ngầm thông với Trôốc Vực cũng bắt nguồn từ đó.

Cùng với những di chỉ và truyền kỳ, Bàu Tró nay được Nhà máy cấp nước Đồng Hới quản lý (trực thuộc Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Quảng Bình) có công suất thiết kế cung cấp 9.000 m3 nước/ngày đêm. Hồ Bàu Tró cùng với hồ Phú Vinh cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân TP.Đồng Hới và một số xã, thị trấn của huyện Quảng Ninh. Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay, hồ Bàu Tró chỉ được khai thác cầm chừng với công suất 3.000m3 nước/ngày đêm (phục vụ cung cấp nước sinh hoạt cho khoảng 20% dân cư TP.Đồng Hới, số còn lại đều lấy nước từ hồ Phú Vinh).

Theo ông Nguyễn Văn Dũng, Trưởng phòng Kế hoạch-Kỹ thuật, Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Quảng Bình cho biết: Sở dĩ Công ty chỉ khai thác với công suất cầm chừng như vậy là để bảo vệ Bàu Tró, di chỉ của người Việt cổ. Hồ Bàu Tró nằm sát biển, chất lượng nguồn nước có giảm so với trước đây do ô nhiễm môi trường từ quá trình đô thị hóa. Nếu khai thác hết công suất thì khả năng xâm nhập nước mặn vào hồ rất cao. Hiện tại, công nhân vận hành trạm bơm nước Bàu Tró vẫn thường xuyên theo dõi sự biến động của mực nước trong hồ để điều chỉnh chế độ khai thác hợp lý.

Cho dù là những di chỉ với những câu chuyện kỳ bí hay là hồ nước ngọt hàng ngày cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân TP. Đồng Hới thì Bàu Tró vẫn là địa danh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, rất cần được bảo vệ một cách khoa học trước nguy cơ bị ô nhiễm ngày càng tăng trong tiến trình đô thị hóa hiện nay.

Nguồn: http://baoquangbinh.vn/dat-va-nguoi-quang-binh/201402/bau-tro-di-chi-truyen-ky-2113039/

Về những chiếc “Dấu Bắc Sơn”: Chức năng và niên đại

“Dấu Bắc Sơn” là tên gọi của một loại bàn mài được phát hiện đầu tiên trong các di tích hang động thuộc thời đại đồ đá ở dải núi đá vôi thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Tên gọi này do hai nhà khảo cổ học người Pháp là H. Mansuy và M. Colani xác định khi họ nghiên cứu các di tích thuộc văn hóa Bắc Sơn – một văn hóa khảo cổ có niên đại cách ngày nay ước chừng 11.000 – 7.000 năm. Tên gọi “Văn hóa Bắc Sơn” và “Dấu Bắc Sơn” là do họ xác lập.

Về niên đại, Văn hóa Bắc Sơn có thời gian cuối của nó ở vào sơ kỳ thời đại đồ đá mới khoảng 7.000 năm với sự xuất hiện của công cụ cuội mài lưỡi là có thể tin được, song với những chiếc “Dấu Bắc Sơn” cho đến nay vẫn là một tồn nghi chưa có lời giải đáp đầy đủ. Tuy nhiên, giới khảo cổ học vẫn coi “Dấu Bắc Sơn” là tiêu chí chỉ thị tính chất văn hóa và nếu di tích khảo cổ học nào tìm thấy loại di vật này thường được họ xếp ngay vào văn hóa Bắc Sơn. Vậy có đích thực là những chiếc “Dấu Bắc Sơn” là tiêu chí xác định những di chỉ khảo cổ chứa đựng chúng thuộc thời đại đồ đá?

Trong cuộc khai quật hang Ngườm Vài (Thông Nông, Cao Bằng), một di chỉ được xếp vào Văn hóa Bắc Sơn, cũng tìm thấy loại di vật này tuy số lượng so với tổng số di vật đá không nhiều (53/2.040). Cùng với “Dấu Bắc Sơn”, tại đây còn tìm được khá nhiều mảnh gốm vỡ thuộc thời kim khí, mảnh vỡ của công cụ đá mài, chì lưới đánh cá (chế tạo bằng cách khoan – mài), đá có vết và nhiều viên cuội nhỏ có vết mài.

Quan sát “Dấu Bắc Sơn”, ta sẽ thấy chúng là một loại bàn mài dùng vào việc chế tác hay làm sắc rìa lưỡi của một loại công cụ khác có độ cứng cao hơn chúng. Về chất liệu, các “Dấu Bắc Sơn” thường là những viên cuội mỏng dẹt, dài chủ yếu là cuội sét kết hay cát kết mịn có độ cứng không cao lắm, tuy nhiên cũng có những chiếc làm bằng cuội silic hoặc bán quartz có độ cứng cao. Vết mài trên các “Dấu Bắc Sơn” có hình cong khum, một số ít có hình chữ V ngược. Điều đó cho biết loại công cụ được mài có rìa lưỡi vũm với kích thước nhỏ bởi các vết mài chỉ rộng từ 0,5cm đến xấp xỉ 1,0cm, thông thường chỉ trong khoảng 0,5 – 0,7cm. Vết mài trên di vật này thẳng, nhẵn bóng, rìa cạnh của vết mài (kể cả ở hai đầu) sắc gọn. Chất liệu và dấu vết kỹ thuật trên di vật cho hay chúng là những chiếc bàn mài đánh bóng hay “lấy lưỡi” của vật được mài, tức là chúng chỉ dùng vào việc làm tăng độ sắc bén của rìa lưỡi công cụ mà thôi và loại công cụ được mài có độ cứng cao hơn những chiếc “Dấu Bắc Sơn” rất nhiều.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có loại di vật nào tìm thấy trong các hang động thuộc Văn hóa Bắc Sơn có rìa lưỡi vũm tương đương với những chiếc “Dấu Bắc Sơn” đã được phát hiện. Một số người cho những chiếc bàn mài này dùng để mài công cụ xương bởi chỉ có công cụ làm bằng xương mới có hình cong khum mà thôi. Song loại xương có thể sử dụng làm công cụ lại thường là xương ống của động vật lớn như trâu, bò hay hươu, nai nên vết mài vũm nếu có cũng lớn hơn vết mài trên các “Dấu Bắc Sơn” nhiều lần (chỉ có xương ống chân chim hoặc gà mới có kích thước gần tương đương với vết mài của “Dấu Bắc Sơn”). Nên, theo chúng tôi, ý kiến trên khó mà đứng vững được.

Từ dấu vết kỹ thuật còn lưu lại trên các “Dấu Bắc Sơn”, chúng tôi cho rằng chúng được dùng để mài công cụ kim loại. Bởi chỉ có kim loại mới có thể để lại vết mài sắc gọn, nhẵn bóng trên loại di vật này được mà thôi. Và, những chiếc “Dấu Bắc Sơn” ở Ngườm Vài cũng như trong các di chỉ chứa chúng khác không phải là loại công cụ gia công của thời đại đồ đá mà là sản phẩm của thời kim khí. Do vậy, “Dấu Bắc Sơn”, cuội nhỏ có vết mài là những tiêu chí có thể sử dụng để xếp những di tích khảo cổ chứa chúng vào thời kim khí.

(Tác giả: Đào Quý Cảnh)

Nguồn: http://khaocohoc.gov.vn/ve-nhung-chiec-dau-bac-son-chuc-nang-va-nien-dai

 

Sưu tập công cụ cuội văn hoá Sơn Vi

Văn hóa Sơn Vi là di chỉ văn hóa được lấy tên theo địa phận xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là nơi đã phát hiện đầu tiên các công cụ cuội ghè, đẽo. Tập trung chủ yếu tại các di chỉ: Sơn Vi, Vườn Sậu, Sóc Lọi, Làng Nghìa, Núi Thắm, Phân Đậu, Phân Muồi, Núi Nỏn,…

Cho đến nay các nhà khảo cổ học đã phát hiện 105 địa điểm của địa bàn tỉnh Phú Thọ, trên 230 địa điểm Sơn Vi trong cả nước. Nhiều nhất là ở tỉnh Phú Thọ 105 địa điểm, Yên Bái 39 địa điểm, Sơn La 22 địa điểm, Lai Châu 18 địa điểm, Bắc Giang 13, Lâm Đồng 2, Quảng Trị 1,… Qua các hiện vật thu được trên địa bàn cả nước cũng như trong tỉnh Phú Thọ các nhà nghiên cứu xác định rằng văn hóa Sơn Vi thuộc giai đoạn hậu kỳ đá cũ lấp vào khoảng trống lịch sử từ sơ kỳ đá cũ lên sơ kỳ đá mới. “Văn hóa Sơn Vi có niên đại mở đầu vào khoảng 23.000 năm chấm dứt vào khoảng 11.000 năm cách ngày nay” (Hà VănTấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình năng Chung, 1999);

 

Địa bàn phân bố Sơn Vi khá rộng, không chỉ ở phía Bắc mà còn ở Bắc Trung Bộ, phân bố không đồng đều trên hai loại hình cơ bản: Loại hình hang động – mái đá phân bố rải rác, đan xen ở vùng núi đá vôi Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, ở những hang cao và đầu nguồn các con suối. Và loại hình đồi gò – thềm sông: Các địa điểm Sơn Vi tập trung thành 4 vùng hay 4 nhóm lớn: Trung lưu sông Hồng; thượng lưu sông Đà; thượng lưu sông Lục Nam và thượng lưu sông Cả.

Từ trước đến nay các nhà khoa học đã chứng minh một trong những nguồn hợp hình thành văn hóa thời Hùng Vương là các văn hóa tiền Đông Sơn kế tiếp nhau ở lưu vực sông Hồng, với các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Việc phát hiện văn hóa Sơn Vi cho chúng ta biết được tổ tiên xa xăm hơn trên đất tổ Vua Hùng dựng nước.

Từ khi phát hiện ra nền văn hóa này vào năm 1968, các nhà khoa học có rất nhiều điều phải bàn như: Niên đại văn hóa Sơn Vi, địa bàn cư trú, sự có mặt của văn hóa Sơn Vi trong hệ thống di chỉ thuộc khu vực Đông Nam Á, vấn đề mảnh tước trong văn hóa Sơn Vi, dấu tích di cốt động vật,… Ở đây thông qua bộ sưu tập này Bảo tàng Hùng Vương giới thiệu với người xem về loại hình công cụ, nguyên liệu, chất liệu, kỹ thuật chế tác, chức năng sử dụng các công cụ của cư dân Sơn Vi đó là một trong những cách thức trong việc xác định mối quan hệ về bước chuyển biến từ văn hóa Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) lên văn hóa Hòa Bình (Sơ kỳ đá mới).

Trong hơn một thế kỷ qua ngành khảo cổ học đã có những đóng góp không nhỏ trên địa bàn vùng đất tổ với những phát hiện khảo cổ: Văn hóa Sơn Vi (cách ngày nay 11 vạn năm), Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn (đến 2000 năm). Hiện nay trong kho hiện vật Bảo tàng tỉnh Phú Thọ đang lưu giữ rất nhiều bộ sưu tập quý giá là các văn hóa sơ sử kế tiếp nhau tương ứng với thời kỳ Hùng Vương ở lưu vực sông Hồng và có một bộ sưu tập hiện vật có ý nghĩa giá trị lịch sử hết sức to lớn đối với tiến trình lịch sử của dân tộc, đó chính là bộ sưu tập công cụ cuội của nền văn hóa Sơn Vi được trưng bày trong hai tủ với số lượng hơn 40 công cụ với đầy đủ các loại hình.

Các nhà khảo cổ khẳng định: “Đặc trưng nổi bật trong công cụ đá văn hóa Sơn Vi là việc sử dụng cuội sông, suối để chế tác công cụ. Đó là nguồn nguyên liệu tại chỗ được người xưa tuyển chọn có hình dáng khá ổn định đối với từng loại hình và từng nhóm di vật cụ thể.” (Hà Văn Tấn – Nguyễn Khắc Sử – Trình Năng Chung 1999, 129). Về chất liệu các loại đá trong sưu tập Sơn Vi thường được xác định dựa vào màu sắc để đoán nhận. Theo các công trình đã công bố đều thống nhất chất liệu được người Sơn Vi sử dụng là đá Quartzite đôi khi có cả đá cát kết, basalte, porphyrite, phtanite, bộ sưu tập Sơn Vi trong Bảo tàng tỉnh Phú Thọ được xác định là đá Quartzite.

Về loại hình và kỹ thuật chế tác: Công cụ đặc trưng của loại hình văn hóa Sơn Vi được chia làm hai nhóm: công cụ cuội nguyên bao gồm chày, bàn nghiền, hòn ghè và nhóm công cụ cuội ghè đẽo. Trong các sưu tập Sơn Vi nhóm công cụ cuội nguyên rất ít, nhóm công cụ cuội ghè đẽo có số lượng nhiều và loại hình phong phú, sưu tập công cụ cuội trong Bảo tàng chủ yếu là nhóm công cụ cuội ghè đẽo bao gồm:

Những công cụ rìa lưỡi ngang: Kích thước trung bình chiều dài từ 9cm đến 12cm, chiều rộng từ 7cm đến 9cm, lưỡi hẹp, thân dài ghè ít lớp, góc lưỡi nhỏ. Với loại hình công cụ này cho thấy đã được cư dân Sơn Vi sử dụng kỹ thuật ghè đẽo là chủ yếu, những loại công cụ này thường được ghè vài nhát, ghè một lớp theo hướng, có đốc cầm dài. Cũng vẫn loại hình công cụ rìa ngang nhưng thân cuội cực ngắn, ghè sát đến phần đầu hẹp viên cuội được gọi là núm cuội, khiến cho viên cuội có đốc cầm cực ngắn (10,5 x 6,5 cm).

Những công cụ rìa lưỡi dọc với lưỡi dài, thân ngắn, ghè ít hoặc nhiều lớp, góc lưỡi hẹp hoặc lớn, loại công cụ này được làm từ loại cuội bầu dục dẹt, mỏng. Kỹ thuật ghè tạo một lớp lưỡi ghè mỏng chạy dọc theo chiều dài của viên cuội. Kích thước chiều dài từ 11cm đến 13cm, chiều rộng từ 3cm đến 6cm.

Công cụ phần tư viên cuội được sử dụng kỹ thuật bổ cuội, chặt bẻ sau đó các loại công cụ này được sử dụng kỹ thuật ghè, đẽo tạo rìa tác dụng từ cuội bổ. Kỹ thuật chặt bẻ trong Sơn Vi tạo ra công cụ phần tư viên cuội (chiều dài từ 9cm đến 13cm, chiều rộng từ 5cm đến 8cm), còn trong văn hóa Hòa Bình tạo công cụ rìu ngắn. Sử dụng công cụ từ cuội bổ chính là tận dụng nguồn nguyên liệu trong điều kiện khan hiếm và giảm thiểu quy trình ghè đẽo tạo rìa tác dụng.

Bộ công cụ rìa lưỡi xiên tại Bảo tàng có kích thước (chiều dài từ 7cm đến 15cm, chiều rộng từ 4,7cm đến 12cm) làm từ cuội dẹt, ghè một mặt, thường cuội mỏng ghè ít lớp, cuội dày ghè nhiều lớp. Loại công cụ này còn được gọi là công cụ lưỡi lệch.

Ngoài ra trong bộ sưu tập này còn có các loại công cụ hai rìa, ba rìa, công cụ mũi nhọn, công cụ đa rìa, một số mảnh tước, vẫn sử dụng kỹ thuật ghè đẽo là chủ yếu. Trong loại hình công cụ đa rìa kỹ thuật ghè được sử dụng để ghè hết một mặt lớn của vỏ cuội tự nhiên, được ghè từ một lớp đến nhiều lớp khác nhau tạo thành rìa cạnh sắc.

Như vậy trong văn hóa Sơn Vi kỹ thuật ghè đẽo được sử dụng chủ yếu trên hòn cuội tự nhiên, kết hợp với bổ cuội để tạo phần tư viên cuội làm công cụ trong điều kiện tận dụng nguyên liệu tại chỗ và kỹ thuật chặt bẻ là một thủ pháp đặc thù trong kỹ thuật Sơn Vi. Chặt bẻ là khâu thứ hai tiếp theo sau khi đã tạo ra được công cụ có rìa lưỡi. Chặt đôi công cụ rìa dọc để tạo ra được công cụ phần tư cuội, chặt đốc công cụ rìa lưỡi hẹp để tạo ra những chopper đốc ngắn và phẳng. Cũng vẫn sử dụng các kỹ thuật ấy đến văn hóa hòa Bình đã có một bước phát triển hơn tạo thành rìu đá kết hợp với kỹ thuật mài.

Về công dụng: Các loại công cụ trên được cư dân Sơn Vi sử dụng hàng ngày như những loại dụng cụ chặt, cắt, đập, giã, nghiền trên các vật dụng sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày như rau, cỏ, thịt thú rừng,… Từ những chứng tích về văn hóa Sơn Vi ta có thể hình dung đôi nét về cuộc sống của cư dân lúc đó: họ sống trên những hang cao, đầu nguồn các con suối và đồi gò thấp, ven sông, dựa vào kinh tế săn bắt hái lượm, chưa có kinh tế sản xuất nông nghiệp, chưa biết làm đồ gốm. Tại Phú Thọ văn hóa Sơn Vi tập trung chủ yếu tại vùng ngã ba sông, đồi gò của huyện Lâm Thao, ngoài ra còn có ở vùng đồi gò dọc bờ sông Thao và sông Lô thuộc các huyện Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng, Cẩm Khê, Phù Ninh, Tam Nông,…

Thông qua bộ sưu tập này chúng tôi muốn giới thiệu đến đông đảo bạn đọc về một nền văn hóa xa xôi mà Phú Thọ vinh dự, tự hào mang tên nền văn hóa đó, văn hóa Sơn Vi – Phú Thọ là một trong những trung tâm thời đại đá cũ của Việt Nam, lấp vào khoảng trống lịch sử từ sơ kỳ đá cũ lên sơ kỳ đá mới, giúp các nhà khoa học khẳng định một cách chắc chắn về nguồn gốc của con người thời kỳ tiền Hùng Vương và Hùng Vương trên vùng đất cổ của Tổ quốc.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/hien-vat-dac-sac/396-suu-t-p-cong-c-cu-i-van-hoa-son-vi

Giao lưu văn hóa Đại Việt – Chămpa trên cổ vật

Trong tiến trình lịch sử của mình vương quốc Chămpa luôn có những mối quan hệ giao lưu và tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu vực, trong đó có Đại Việt thời Lý – Trần.

Chămpa được thành lập vào thế kỷ thứ II, ban đầu có tên là Lâm Ấp, thế kỷ thứ VII mới đổi thành Chămpa. Buổi đầu kinh đô của vương quốc này được đặt tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam. Nhưng vào giữa thế kỷ thứ VIII, đã được dời xuống phía nam và đặt ở khu vực Phan Rang, Nha Trang ngày nay. Đồng thời lúc này thư tịch cổ không còn chép là Lâm Ấp nữa mà gọi là Hoàn Vương.

Hầu hết các tháp Phật thời Lý – Trần được làm bằng đất nung và có bình đồ hình vuông như tháp Bình Sơn, tháp Phổ Minh là tiếp thu từ văn hóa Chăm. Các tháp Chăm đều có bình đồ hình vuông do ảnh hưởng từ các tháp Tudi của Ấn Độ. Và tháp Chăm chỉ có một cửa vào cũng đã ảnh hưởng đến lối xây dựng chùa Một Cột dưới thời Lý.

Mô hình tháp đất nung thời Lý – Trần có bình đồ hình vuông mang hơi hướng của văn hóa Chăm

Trên những hiện vật gạch ngói úp nóc tạc hình chim uyên ương ở kinh thành Thăng Long chúng ta thấy có những nét phẳng phất giống với ngỗng thần Hamsa trong văn hóa Chăm, phần đầu cánh được xoắn lại tạo nên hình cánh cung giống với đôi cánh của thần điểu Garuda.

Tượng uyên ương trong văn hóa Lý – Trần

Chim thần Garuda trong văn hóa Chăm

Tượng chim Kinnari gốm đất nung trong văn hóa Lý – Trần được lấy nguyên mẫu từ tượng chim Kinnari bằng đá sa thạch trong văn hóa Chăm.

 

Chim Kinnari, chất liệu đá sa thạch trong văn hóa Chăm

Chim Kinnari, chất liệu gốm đất nung thời Lý – Trần

Như vậy, những dấu ấn Chămpa trong kiến trúc, mỹ thuật và tạo hình tại các công trình xây dựng cho thấy văn hóa Chămpa đã ảnh hưởng sâu sắc đến lối sáng tác, tư duy, thẩm mỹ của người Đại Việt thời Lý – Trần. Người Chăm đã mang những nét văn hóa riêng của mình ra Đại Việt, hòa trộn với văn hóa bản địa để làm nên sự tỉ mỉ, chau chuốt của các hiện vật thời Lý – Trần. Các hiện vật tồn tại cho đến ngày nay đã phần nào cho chúng ta thấy rõ điều đó.

 

 

 

Tìm hiểu về gốm minh văn triều Mạc qua sưu tập chân đèn ở BTLSQG

Triều Mạc là một triều đại để lại nhiều dấu ấn về phát triển kinh tế, văn hóa… Sự phát triển này được thể hiện trên nhiều phương diện, trong đó nổi bật là nghề làm gốm với loại hình đồ gốm có minh văn rất độc đáo. Minh văn trên đồ gốm là một nguồn tư liệu quý, cung cấp cho chúng ta thông tin về họ tên, quê quán của người thợ sản xuất; họ tên của những người đã đặt hàng, từ những tầng lớp trên như công chúa, phò mã tới tầng lớp bình dân.

Gốm có minh văn hầu hết là đồ thờ cúng như: chân đèn, lư hương, tượng thờ. Những minh văn trên gốm thờ còn khắc tên các ngôi chùa, quán và đề tài trang trí chủ yếu là rồng, phượng, lá đề, hoa sen, cánh sen…. Điều này được minh chứng rất rõ qua sưu tập chân đèn gốm có minh văn trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tiếp nối sự phát triển gốm thời kỳ trước đó, đến triều Mạc thì nghệ nhân gốm hội tụ đầy đủ yếu tố cho sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo, để làm ra những chân đèn gốm kiểu dáng mới, nghệ thuật và kỹ thuật trang trí theo lối riêng, mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế với những loại hình mang tính mỹ thuật cao. Đây là loại hình gốm mỹ thuật đặc sắc về tạo hình, để lại nhiều tên tuổi nghệ nhân giỏi như: Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương); gia đình Đỗ Phủ ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm; Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương …

Chân đèn gốm triều Mạc khá phong phú về kiểu dáng, màu men (chủ yếu gốm hoa lam, lam xám) được nghệ nhân tạo tác với hầu hết các kỹ thuật như chuốt, tạo dáng trên bàn xoay. Sản phẩm được thực hiện trên nhiều công đoạn khác nhau, phức tạp và tỉ mỉ. Các bộ phận của chân đèn được chia thành nhiều phần khác nhau, lắp ghép lại, sau đó được gia công thêm bằng cách nặn, đúc, đắp nổi, vẽ các dạng hoa văn, hình tượng. Và đặc biệt, trên loại sản phẩm gốm này còn được thể hiện rất nhiều minh văn, đem lại cho chúng một giá trị lịch sử cũng như giá trị về phong cách tạo hình một cách chính xác.

Để thể hiện các bài minh trên gốm, các nghệ nhân xưa thường dùng lối khắc chữ, viết bằng men lam dưới men trắng, in đắp nổi chữ hoặc kết hợp giữa các phương pháp này với nhau. Nếu là khắc hoặc đắp nổi thì thường là khắc chữ sau khi đã phủ men, đôi khi cũng có trường hợp khắc chữ dưới men (có nghĩa là chữ được khắc trên xương gốm sau đó phủ men). Kiểu chữ dù viết, khắc hay đắp nổi đều dùng lối chữ chân phương. Đối với chân đèn, minh văn thường được thể hiện trước đầu rồng ở thân trên thuộc phần dưới các chân đèn và kéo dài dọc các cánh sen đứng ở thân dưới. Còn với lư hương, minh văn thường được khắc ở các dải quai, quanh miệng hoặc chân đế, khắc xung quanh cổ hoặc khắc quanh đế.

Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử quốc gia trưng bày chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành năm thứ 3 (1580). Chân đèn gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và 2 đoạn dưới hình cái loa cách nhau bằng đường gờ nổi để mộc; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi để mộc 2 cặp phượng múa ở phần trên; băng lá đề kép ở vai và hình rồng vờn ngọc ở thân, kết hợp vẽ lam hoa và mây trong băng cánh sen dưới miệng, mây quanh rồng phượng; cánh sen dài trong có dải xoắn ốc, băng hoa cúc dây trên đế. Men phủ màu trắng ngà.

Chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành 3 (1580)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 24, tháng 6, niên hiệu Diên Thành 3 (1580) và do nghệ nhân Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu, ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng chế tạo. Minh văn còn cho biết Đại sĩ Ngạn Quận công Mạc Ngọc Liễn, vợ là trưởng công chúa Phúc Thành cùng với 74 sãi vãi thuộc 2 xã Lưu Xá và Đặng Xá, đặt làm chân đèn đẻ cung tiến vào quán Linh Tiên (xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ).

Bên cạnh đó, chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và đoạn 2 và 3 hình loa, cách nhau bằng đường gờ nổi tô nâu; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi 2 mặt hổ phù ở phần trên; trang trí vẽ lam, xung quanh đoạn miệng chia dọc nhiều dải chữ nhật, vẽ hoa. Đoạn 2 và 3 vẽ 2 cặp phượng múa. Phần dưới, vai vẽ băng lá đề bên trong vẽ nửa bông hoa. Thân trên vẽ rồng mây, thân dưới vẽ cánh sen đứng, trong vẽ các dải xoắn đôi. Chân đế vẽ băng chữ V lồng, lá đề và dây lá hình sin. Men vẽ phủ màu xanh đen, men phủ màu trắng xám.


Chân đèn gốm lam xám, triều Mạc, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 1 tháng 4, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) và do nghệ nhân Đỗ Xuân Vi ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An chế tạo. Minh văn còn cho biết các sãi vãi ở xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng công tạo bình hoa cúng dưỡng chùa Quan Âm (xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng) làm vật Tam bảo.

Đặc biệt, chân đèn gốm men lam xám và nâu, thời Mạc, tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588) là hiện vật độc đáo. Chân đèn gồm 2 phần, phần trên tạo dáng một bông hoa sen nở, trang trí rồng đuổi, rồng uốn. Phần dưới có vai và thân phình chạm nổi băng cánh sen bên trong có bông hoa. Thân trên chạm nổi 4 rồng “yên ngựa” trong khung viền hình nhĩ bôi. Thân dưới chạm nổi băng cánh sen đứng bên trong có hình rồng nổi. Chân đế chạm nổi răng cưa, vạch đứng song song, cánh hoa bên trong có bông hoa. Men phủ màu lam xám, tô men nâu trên 2 tai rồng và dải quai.

Minh văn trên chân đèn cho biết niên đại tuyệt đối cũng như họ tên nghệ nhân chế tạo ra nó. Dọc theo thân trên có khắc 2 dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4, đời vua Mạc Mậu Hợp (1588) và do nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) chế tạo.

Các nhà nghiên cứu đánh giá, trong các loại hình đồ gốm có minh văn ở triều Mạc thì đèn gốm chiếm số lượng nhiều nhất. Những người thợ gốm đua tài bằng cách làm ra nhiều cây đèn chân cao, kích thước lớn, trang trí phức tạp. Nhìn hình dáng bề ngoài thì chân đèn gốm giống như những chiếc bình cắm hoa nhưng thực tế lại dùng để đặt đĩa đèn dầu lạc hay đĩa hoa trên miệng bình phục vụ cho cúng lễ. Chân đèn gốm thời Mạc đẹp hơn các thời khác, nó trở thành thước chuẩn để đánh giá phần nào phong cách của mỹ thuật thời Mạc.

Qua so sánh nhiều tác phẩm đồ gốm, Đặng Huyền Thông được các nhà nghiên cứu đánh giá là nghệ nhân gốm xuất sắc triều Mạc, tiêu biểu cho đỉnh cao của nghệ thuật gốm thời Mạc. Tạo hình tác phẩm của ông mang phong cách rất riêng: trang trí hoa văn trên các tác phẩm gồm nhiều đề tài như hoa sen, hoa cúc, hoa dây, hình rồng, hình học… với rất nhiều bố cục khác nhau. Đề tài tứ linh không được sử dụng trong trang trí mà chỉ có hình rồng, với 15 kiểu rồng nổi khác nhau (rồng nổi kiểu “yên ngựa”, rồng uốn trong cánh sen, rồng uốn trong hình lá đề, rồng uốn trong hình tròn, rồng đuổi…). Các hoa văn hình học như băng răng cưa, vạch thẳng song song… được coi là nối tiếp phong cách truyền thống văn hóa Đông Sơn…

Bên cạnh đó, trên đồ gốm do ông chế tạo, minh văn còn cho biết tên thật của ông là Đặng Mậu Nghiệp tự là Huyền Thông. Ông là sinh đồ, người đã thi đỗ tam trường, làm thợ gốm, quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Những thông tin về tác giả Đặng Huyền Thông không chỉ thấy trên đồ gốm mà còn trên minh văn bia chùa An Định (Hải Dương) quê hương ông. Nội dung văn bia cho biết: Chùa An Định xưa đã bị mai một. Trong xã có Đặng Mậu Nghiệp tên chữ là Đặng Huyền Thông, cùng vợ là Từ Am Nguyễn Thị Đỉnh kết hợp với nhiều vương công và đông đảo người hảo tâm trong xã huyện đứng ra hưng công dựng chùa, tạc tượng. Bia lập vào niên hiệu Đoan Thái 3 (1587). Người soạn văn bia này chính là Đặng Huyền Thông.

Như vậy, qua sưu tập gốm minh văn triều Mạc thế kỷ 16 cho thấy dòng gốm mang nét riêng độc đáo góp phần làm phong phú kho tàng gốm cổ Việt Nam. Hơn nữa, các thông tin trên minh văn đồ gốm góp phần minh chứng thời kỳ phục hưng Phật giáo ở Việt Nam trong thế kỷ 16.

Nguồn: BTLSQG

Những loại cổ vật Việt Nam là duy nhất trên thế giới

Jean Francois Hubert, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, cổ vật Việt Nam, mỹ thuật Việt Nam, văn hóa Chămpa… đã dành cho TTCT một cuộc trao đổi về cổ vật Việt Nam.

Mở đầu cuộc phỏng vấn về Việt Nam, ông Hubert cho biết: “Tôi vô cùng ấn tượng về đồ gốm Việt Nam. Những chiếc ấm, thạp thời Lý – Trần hay bình vôi, chum, hũ thời Lê… cả hình dạng, phong cách, họa tiết trang trí thì không lẫn vào đâu được. Tôi thường nói đùa những đồ vật này là 300%, thậm chí 500% là cổ vật Việt Nam, với nhiều đặc trưng mà đồ gốm các nước khác, kể cả Trung Quốc không hề có. Những dấu hiệu trên những cổ vật ấy mang dấu ấn của hội họa trừu tượng. Cách đây 10 thế kỷ mà người Việt đã nghĩ ra những họa tiết như vậy thì rất ngạc nhiên. Đối với tôi, những đồ gốm thời Lý – Trần là tuyệt tác. Văn hóa Đông Sơn độc đáo và duy nhất trên thế giới, xứng đáng để chúng ta tiếp tục đào sâu nghiên cứu nhiều hơn nữa. Trong khi đó, người Trung Quốc khi viết về văn hóa Đông Sơn thì thường xem nền văn hóa này như một bộ phận của văn hóa Quảng Tây. Phía Trung Quốc, vẫn có những cuộc triển lãm về đồ Đông Sơn của Việt Nam và ghi chú giải thích bên dưới đó là thuộc văn hóa Trung Quốc. Theo tôi, nền văn hóa này là của Việt Nam 100%”…

* Thưa ông, cổ vật ở Việt Nam hiện đang thật giả lẫn lộn, không chỉ đồ giả mà còn làm giả trên chính đồ thật. Là một chuyên gia, ông làm thế nào để phát hiện sự thật – giả này? Có cách nào để phòng tránh?

Ở Việt Nam, một số thợ gốm ở Bát Tràng, thợ điêu khắc đá ở Đà Nẵng hay thợ đúc đồng ở Thanh Hóa… làm đồ giả cổ rất giỏi. Họ phỏng theo đồ thật và làm đồ giả giống như thật. Có trường hợp ở Thanh Hóa, người ta làm đồ giả cổ, phết thêm một lớp “ten” đồng của đồ thật ở bên ngoài rồi hô hoán đào được trong lòng đất, rồi có người đứng ra làm chứng hẳn hoi… Thật ra ở Quảng Tây (Trung Quốc) cũng có chuyện làm giả như vậy chứ không riêng gì ở Việt Nam.

Muốn phân biệt thật – giả trước tiên phải xem xét dấu vết thời gian đọng lại trên hiện vật. Công việc này chúng tôi làm hằng ngày và trong nhiều năm nên đã đúc rút thành kinh nghiệm để nhận diện. Muốn giám định đúng hiện vật phải thường xuyên tiếp cận, cọ xát từ ngày này sang ngày nọ, rất cần mẫn, công phu và mất nhiều thời gian. Với nghề này, càng tiếp cận nhiều với hiện vật càng dễ đi đúng hướng.

Thật ra trên thế giới chỉ có khoảng năm hay sáu người thật chuyên, thật giỏi, có thể hiểu được tường tận một số đồ vật. Nhưng trên thế giới cũng có những kẻ lừa đảo rất giỏi, có thể tồn tại trong nghề giả cổ này đến 20 năm.

Tôi học được rất nhiều từ những nhà sưu tập Việt Nam. Họ khá lạ, có người trong 20 năm ròng chỉ mân mê đồ vật mà tích lũy kinh nghiệm chứ không học từ sách vở hay trường lớp nào như các nhà giám định ở phương Tây. Lâu ngày tự nhiên có kiến thức, phân biệt rất già dặn. Họ kinh nghiệm đồ đồng Đông Sơn thật sẽ rất nhẹ. Còn tượng Chămpa thật nếu búng vào thì có tiếng “lanh canh, long cong”. Chỉ cần nhấc một tượng Phật gỗ Phù Nam lên, người giỏi biết ngay thật – giả.

Đừng nghĩ rằng chỉ ở Việt Nam mới có nhiều đồ giả mà ngược lại phương Tây còn nhiều hơn. Thực trạng cổ vật ở Việt Nam cho thấy đó là một gia tài đồ sộ, và nghiên cứu của chúng ta về gia tài này thì chưa tới đâu.

* Ông có lời khuyên nào đối với người chơi cổ vật Việt Nam?

Nếu lao vào cuộc chơi này trước tiên nên tin tưởng ở mình và tự học, nên trực tiếp, thường xuyên tiếp xúc với hiện vật. Nên đến các phòng triển lãm hoặc viện bảo tàng để xem và sau đó là tìm sách để đọc. Ở Việt Nam có nhiều cuốn sách viết về cổ vật rất tốt, nhiều công trình biên khảo về đồ gốm rất có giá trị.

Người chơi cũng nên chọn thái độ lương thiện, liêm sỉ trong cuộc chơi, vừa nhũn nhặn để học tập, nuôi cho mình sự đam mê mới đi được xa. Theo tôi, phải mất ít nhất 15 năm mới biết mình có trụ vững trong nghề hay không. Tất nhiên, khi đạt đến trình độ bình phẩm về cổ vật mới được coi là người có nghề. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu sâu trong một thời gian dài.

Ngày xưa Henri Parmentier khởi đầu bằng việc khai quật ở Mỹ Sơn. Xem lại những cuộc khai quật tương tự, so với thế giới thì đúng là nước Pháp đi trước các nước khác cả 30 năm nhưng sau đó thì chững lại. Những viện bảo tàng Pháp sau những bước đi đầu rất đẹp, chỉ ôm khư khư những hiện vật cổ, cho đến nay chậm hơn không dưới 30 năm so với nhiều bảo tàng trên thế giới.

Từng có những sự kiện chấn động ở Pháp khi một chuyên gia về Chămpa công bố những khám phá mới và được giới nghiên cứu lắng nghe. Nhưng sau đó mới lòi ra đó là những món đồ sao chép khiến người ta rất hoang mang. Vì thế, nếu chỉ nghiên cứu lý thuyết trong một thời gian dài mà không sờ đến hiện vật sẽ không phân biệt được thật – giả và sẽ có nhiều lỗ hổng trong giám định…

* Người Việt Nam đang có xu hướng giảm chơi đồ gốm Trung Quốc mà chuyển sang chơi đồ gốm Việt Nam. Ông đánh giá điều này như thế nào?

Trước tiên phải thừa nhận đồ gốm Trung Quốc số lượng rất lớn và có lẽ mang một “thiên chức vương giả”. Đồ càng đẹp, càng uy nghi thì người Trung Quốc càng trọng. Trong khi đó người Việt Nam và Nhật Bản khi xem xét hiện vật thường có khuynh hướng nhân văn hơn, thường đặt trong một bối cảnh có nhiều mối tương quan với đất đai. Gặp những món đồ có vết rạn, người Trung Quốc thường vứt bỏ.

Người Việt Nam và Nhật Bản thì giữ lại. Họ thấy trong đó có hình ảnh, tiếng nói của đất. Tôi cảm thấy người Pháp chúng tôi cũng có tương quan về đất đai như thế nhưng ở tầm mức ít sâu sắc hơn. Điều này không hiểu sao ở người Việt lại mãnh liệt đến mức kỳ lạ. Theo tôi, trong 30 năm tới đây xu hướng này sẽ rõ nét hơn, và giới sưu tầm trên thế giới sẽ nghiêng hẳn về xu hướng này.

* Ở Việt Nam mới chỉ có các cuộc đấu giá cổ vật nghiệp dư và tự phát. Theo ông, vì sao Việt Nam chưa có sàn đấu giá cổ vật? Phải chăng do luật pháp không đầy đủ, do người Việt không có kinh nghiệm hay do sức hút của thị trường kém?

Không riêng gì Việt Nam mà nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Philippines… cũng không có sàn đấu giá. Đấu giá cổ vật là một sự bảo đảm tính thật – giả rất tốt cho hiện vật. Nhưng chính vì tính phức tạp và cơ chế đấu giá cổ vật ở Việt Nam chưa rõ ràng cho nên người ta chưa tổ chức được. Trong cuộc bán đấu giá không thể phỉnh gạt, làm mờ mắt ai được. Đem một cái thố ra bán phải kèm theo bảo hiểm, rồi phê bình, miêu tả rất đầy đủ, từ xuất xứ, niên đại, tính chất, đặc điểm, rồi định giá…

Điều tôi thích ở các cuộc đấu giá là mọi chuyện xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, từ kẻ bán người mua cho đến giá cả, sự thật – giả… Chính vì vậy mà cuộc đấu giá có nhiều thủ tục phức tạp khiến nó chưa thể thực hiện ở Việt Nam. Các hãng đấu giá lớn trên thế giới cũng từng gặp những phiền toái như thế.

Có trường hợp khách hàng đưa 10 hiện vật đến hai hãng Christie’s và Sotheby’s để đấu giá. Qua thẩm tra, khảo cứu, các hãng đấu giá chỉ chọn được hai món để đưa ra đấu giá và cất đi tám món. Sau đó, hãng đấu giá trả lời rất khéo rằng họ chỉ bán được hai món. Vì thế, đôi khi những người có cổ vật bị từ chối thì sinh lòng trách giận hãng đấu giá.

* Dự đoán của ông về thị trường đấu giá cổ vật của Việt Nam?

Tôi chưa nhìn ra được thị trường này, kể cả trong nhiều năm nữa. Hai hãng đấu giá lớn là Christie’s và Sotheby’s đã suy nghĩ về việc này hơn 10 năm nay nhưng chỉ mới khởi đầu trong một vài năm gần đây. Muốn làm được điều này sẽ phải vượt qua nhiều quy định rất phiền phức của chính quyền sở tại. Rồi hiện tượng dối trá, lọc lừa.

Người ta ít khi nghĩ đến những khoản lợi nhuận vô cùng lớn mang lại cho quốc gia nếu làm được điều này mà cứ nghĩ đây là trò tiêu khiển của một nhóm người, do đó chưa đặt sự việc đúng tầm mức.

Việt Nam các bạn tương tự Pháp và Ý, là những xứ sở có nền văn hóa rất cao. Những giá trị của nền văn hóa như thế này là độc nhất vô nhị. Nhiều khi tôi cũng tự hỏi không biết người Việt Nam có nhận ra được điều đó không. Tôi nghĩ người Việt Nam bây giờ phải nghĩ cách tái chinh phục văn hóa của nước mình. Có thể nói văn hóa Việt Nam như khoáng sản, chẳng khác dầu mỏ mà chưa ai biết cách khai thác để làm giàu.

* Theo ông, vị trí và giá trị của cổ vật Việt Nam đang ở đâu trên thế giới?

Trên thị trường thế giới, cổ vật Việt Nam không được quan tâm như hội họa, vốn có vị trí cao và đang tiếp tục vươn lên. Cổ vật Việt Nam, những đồ Đông Sơn có tiếng tăm cũng chưa nhiều, đó là chưa kể những cổ vật đích thị của Việt Nam nhưng lại bị Trung Quốc nhìn nhận của họ. Từ những năm 1995 – 1996 tôi có tổ chức một số triển lãm và đấu giá cổ vật Việt Nam, nhưng giá cả nhìn chung không cao lắm. Trong khi đó, vị trí và giá cả của hội họa Việt Nam đã tăng lên cao trong tổng thể hội họa châu Á.

Nguồn: Cuộc phỏng vấn do THÁI LỘC – TRẦN ÐỨC ANH SƠN thực hiện

Tg: Chắc chắn nội dụng cuộc phỏng vấn sẽ gợi cho các chuyên gia, những người chơi và yêu thích cổ vật Việt Nam nhiều suy ngẫm…

Lý giải bí ẩn các cổ vật trong túi Khót của ông Mo Mường – Hòa Bình

Mo Mường là một loại hình văn hóa phi vật thể của người Việt cổ, có cơ sở vững chắc về mặt khoa học bởi nó được chứng minh thông qua túi Khót của các ông thầy Mo.

Thời tiền sử người Việt cổ tại Hòa Bình đã có những quan niệm về nhân sinh quan vũ trụ được biểu hiện trong các sử thi Mo Mường. Họ quan niệm trời sinh ra trước, đất sinh ra sau. Quan niệm này rất giống với quan niệm của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia nói tiếng Slavơ ở châu Âu, nước Ai Cập cổ đại hay người Inca ở châu Mỹ… Đây là một quan niệm rất khoa học mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu khoa học đã phải thừa nhận nó.

Trong cuộc đấu tranh sinh tồn của người Việt cổ nói riêng và loài người nói chung, con người đã biết tạo ra các công cụ lao động sản xuất, vũ khí bằng những nguyên vật liệu và kỹ thuật thô sơ, mà trong đó có những tạo hình vẫn được kế thừa cho đến tận ngày nay.

Trong những năm vừa qua đã có rất nhiều các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh, những người tâm huyết với di sản văn hóa Mo Mường – Hòa Bình, đã bỏ rất nhiều tiền của, thời gian, công sức để ghi chép lại các áng Mo, sử thi về Mo. Tổ chức rất nhiều các lễ hội và chuyển thể một số áng Mo thành các ca khúc với ca từ gần gũi với đời sống thường ngày của người dân… Tất cả vấn đề trên đều toát lên chủ đề xuyên suốt về giáo dục con người tiến bộ mà cho đến ngày nay vẫn chưa hề lạc hậu. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Mo Mường – Hòa Bình rất quan trọng và khẩn cấp, nó có vai trò không chỉ đối với nhân dân Hòa Bình mà còn cả dân tộc Việt chúng ta ngày nay.

Một điều rất quan trọng ở đây đó là vì có quan niệm nhân sinh quan nên trong túi Khót của các ông Mo Mường luôn luôn có các viên sa thạch (testit màu đen hình bánh dầy) và các viên đá bán quý có độ cứng từ 6 – 8 mohs được tìm kiếm và khai quật trong lòng đất. Ngoài ra còn có rất nhiều các vật chứng lịch sử liên quan đến các nghi lễ truyền thống của người Mường, được làm bằng các chất liệu đá, đồng, nhuyễn thể… Những vật chứng này được giữ gìn qua nhiều thế hệ, sử dụng làm đồ tế khí để tạo thêm sức mạnh huyền bí, phục vụ công tác giáo dục cộng đồng về quá trình đấu tranh sinh tồn của loài người.

Qua đây tôi xin phân tích về túi Khót của các ông Mo như sau:

Hiện vật trong túi Khót của các ông Mo Mường. Nguồn: Internet

Trải qua nhiều thế hệ, túi Khót của các ông Mo luôn được giữ gìn như một báu vật mà không phải ai cũng được xem và sờ vào. Trong túi Khót đó lưu giữ những vật chứng lịch sử vô cùng quý giá và khác biệt với các vật chứng lịch sử do các nhà khảo cổ học khai quật được vì lý do sau đây:

Thứ nhất, viên thiên thạch theo quan niệm của người Mường là ông trời rơi xuống tạo ra Trái đất và viên đá bán quý là vật chứng lịch sử quý nằm trong lòng  đất. Hai vật chứng này thể hiện cho quan niệm về thiên địa nhân hợp nhất của người Mường, họ đã biết sử dụng những vật quý ở trên trời và dưới đất cùng các công cụ lao sản xuất để thu phục thú dữ, chinh phục thiên nhiên tạo ra sức mạnh nhằm giáo dục cộng đồng sống đoàn kết, đấu tranh chống thiên nhiên, tăng cường sức sống trước sự khắc nghiệt của thời tiết ở các giai đoạn tiền sử và sơ sử.

Thứ hai, bên cạnh các viên sa thạch và đá bán quý, trong túi Khót của các ông Mo còn có rìu đá, vòng tay đá có niên đại hàng chục nghìn năm trong văn hóa Phùng Nguyên; rìu xéo và mũi giáo đồng cách ngày nay hàng nghìn năm trong văn hóa Đông Sơn cùng các vật chứng bằng nhuyễn thể như xương, sừng, nanh vuốt của các loài thú dữ. Tất cả các vật chứng lịch này được lưu giữ lại thể hiện quan niệm con người…

Qua các vật chứng lịch sử này, chúng ta có thể thấy được sức mạnh của túi Khót khi các thầy Mo làm lễ mang đến sức thuyết phục cao đối với cộng đồng và hướng cộng đồng tới những áng Mo mang tính giáo dục và nhân văn sâu sắc.