Archives

Lâm Đồng: Bộ sưu tập đồ cổ quý giá trên cao nguyên

Với niềm đam mê sưu tập đồ cổ, anh Nguyễn Văn Tuấn (54 tuổi) đã lặng lẽ đến khắp các con đường, gốc phố, trong các ngôi biệt thự cổ, bãi phế liệu… để tìm mua các hiện vật mang giá trị lịch sử của Đà Lạt với hơn 10.000 hiện vật quý giá.

lam-dong-bo-suu-tap-do-co-quy-gia-tren-cao-nguyen

Anh Tuấn cầm bản sắc “Tiết hạnh khả phong” của vua Bảo Đại

Trong ngôi nhà riêng tại hẻm số 157/2 Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, anh Tuấn đã cất giữ hơn 10.000 hiện vật quý giá, với những món cổ vật đi cùng năm tháng gắn liền với thành phố du Đà Lạt.

Anh Tuấn chia sẻ: “Tôi đã dành thời gian hơn 20 năm đi tìm mua và lưu giữ những chiếc bình hoa cổ, bộ sưu tập đèn dầu, máy chiếu phim quay tay, cân phóng xạ, lò sưởi cổ, cúp bóng đá, bình hoa cổ… trong đó có không ít cổ vật”.

lam-dong-bo-suu-tap-do-co-quy-gia-tren-cao-nguyen

Bộ sưu tập hơn 10.000 cổ vật

Trong hơn 10.000 hiện vật được xếp gọn, món này kề món kia mà anh Tuấn sưu tầm được, có những món cực kỳ quý giá như máy hát đĩa hiệu Pathé lớn nhất Việt Nam ở Đà Lạt, máy tính tiền xưa nhất thế giới có ở Đà Lạt, máy đan len đầu tiên của Đà Lạt…, đã từng ra mắt người dân Đà Lạt và du khách gần xa vào năm 2005 và năm 2008 tại cuộc triển lãm tại hồ bơi Phù Đổng (đường Phù Đổng Thiên Vương), cuộc trưng bày tại khu du lịch Thung Lũng Tình Yêu…

Đặc biệt trong bộ sưu tập của anh Tuấn là toàn bộ những đồng tiền từng lưu hành ở Đà Lạt từ thời phong kiến đến thời Pháp thuộc cho đến nay: Tiền Đông Dương, tiền Bảo Đại, tiền Việt Nam Cộng hòa, tiền Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

lam-dong-bo-suu-tap-do-co-quy-gia-tren-cao-nguyen

Ngoài ra còn có chiếc máy tính tiền rất xưa, có thể là xưa nhất thế giới, được người Pháp đưa sang sử dụng tại Đà Lạt từ những ngày đầu khi họ đặt chân đến Đà Lạt. Một bộ sưu tập hơn 100 cúp thể thao cổ quý giá, mà rất có thể là không còn tìm thấy chiếc thứ hai ở những nơi khác…. .

Những chiếc cúp bóng đá Đông Dương được vua Bảo Đại “nhượng” lại từ hoàng thân Sihanouk năm 1942; cúp bóng đá Pháp và ba nước Đông Dương năm 1948 – 1949; cúp đua xe đạp ba nước Đông Dương năm 1947; cúp bóng đá Việt Minh (đình chiến) năm 1936 (Coupe de L’Armistice); cúp bóng đá Bưu điện Pháp mở rộng tại Đông Dương đầu thế kỷ 20; cúp điền kinh chạy tiếp sức của Pháp tổ chức tại Đông Dương đầu thế kỷ 20…

lam-dong-bo-suu-tap-do-co-quy-gia-tren-cao-nguyen

Bộ sưu tầm hơn 100 chiếc cúp cổ

Bản sắc “Tiết hạnh khả phong” của vua Bảo Đại ban cho một phụ nữ ở Đà Lạt vào những năm 40 của thế kỷ trước với dòng chữ Hán được nhặt ở đống rác bên đường và hàng ngàn cổ vật có giá trị khác.

Nhìn số hiện vật mà anh Tuấn lưu giữ trong kho chật hẹp được xếp gọn trên những kệ tủ, gốc nhà suốt mấy năm qua ai cũng ngặc nhiên và thích thú như được trở lại với quá khứ của Đà Lạt.

Nguồn: http://www.tintaynguyen.com/lam-dong-bo-suu-tap-do-co-quy-gia-tren-cao-nguyen/136446/

Ngắm kho đồ cổ “khủng” của “vua cổ vật Sài Gòn”

Ông Hoàng Văn Cường được giới chơi cổ vật mệnh danh là “vua đồ cổ Sài Gòn” bởi số lượng cổ vật ông có thuộc loại “khủng”, với đủ loại cổ vật có niên đại từ vài trăm năm như thời các triều Nguyễn, thời Quang Trung… hay cổ vật có niên đại cả ngàn năm ở thời Óc Eo, Sa Huỳnh, Đông Sơn… Có những món đồ sứ men màu lam, chỉ dụ của vua hay những cây đèn dầu được chạm khắc tinh vi, sắc sảo. Những bộ sưu tập độc sắc (chỉ một màu trắng) của các triều đại Tống, Minh, Nguyên, Thanh (Trung Quốc)…

Trong đó, nhiều cổ vật có giá trị “thiên hạ vô đối” như chiếc sập có tuổi đời 300 năm của một viên quan người Huế có giá trị khoảng 40 tỷ đồng; những chiếc long sàng của vua Dục Đức, của Hoàng Thái hậu Từ Dũ; bộ sưu tập 25 cây súng Nhật được chế tạo từ năm 1600 có báng súng được làm bằng ngà voi…

Do số lượng cổ vật sưu tầm lớn nên ông Cường phải chia làm 3 nơi để trưng bày, triển lãm tại một căn nhà ở trung tâm quận 1 và hai nơi khác ở quận 7 và quận 9 (TPHCM).

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 1

Ông Hoàng Văn Cường – người được giới chơi cổ vật mệnh danh là “vua cổ vật Sài Gòn” bởi số lượng cổ vật ông sưu tầm có gần 2.000 hiện vật và giá trị khoảng 100 triệu USD

“Cổ vật gắn với cuộc sống hằng ngày của tôi. Nó như một món ăn tinh thần không thể thiếu. Từ lúc biết chơi cổ vật đến nay đã 46 năm sưu tầm, tôi chỉ biết mua chứ không bán. Bởi mỗi cổ vật đều có giá trị riêng và ý nghĩa khác nhau” – “ông vua đồ cổ” đất Sài thành chia sẻ.

 

Theo giới chơi cổ vật, tổng số cổ vật của ông Cường có giá trị khoảng 100 triệu USD.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 2

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 3

Chiếc sập có tuổi đời 300 năm của một viên quan người Huế mua lại từ Trung Quốc. Chiếc sập này được làm bằng gỗ Lệ Chi với những đường chạm trổ tinh xảo. Đã có người trả 2 triệu USD nhưng ông Cường không bán.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 4

Trong những món đồ giá trị của ông Cường có 9 chiếc long sàng (giường của vua). Những món đồ này đều có giá trị “khủng” với giá 40 tỷ đồng.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 5

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 6

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 7

Bộ “Cành vàng lá ngọc” được làm rất tinh xảo với nhiều chi tiết khó bằng các loại chất liệu như ngọc, mã não, san hô, hổ phách từ đời nhà Thanh, Trung Quốc có giá trị rất lớn được nhiều người chơi cổ vật say mê.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 8

Ống đựng bút bằng ngà voi cũng có từ thế kỷ thứ 18 với giá trị “khủng”.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 9

Mã đáo thành công có chất liệu làm bằng ngà voi được chạm trổ rất tinh xảo.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 10

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 11

Nhiều chum, hũ có giá trị từ vài chục đến vài trăm triệu đồng của “ông vua đồ cổ Sài Gòn”, trong đó có những cổ vật men sứ màu lam hay bộ sưu tập độc sắt (chỉ một màu trắng).

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 12

Nhiều bình, bát, dĩa có niên đại cách đây cả trăm năm. Có cổ vật có niên đại gần ngàn năm.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 13

Bộ bình ly uống trà có niên đại rất cao nó được làm bằng sứ. Ông Cường cho biết ngoài giá trị về thời gian, khi pha trà vào bình này “uống có hương vị rất thơm và đậm đà”.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 14

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 15

Nhiều bình, chén có hoa văn rất tinh tế. Giá trị của nó thuộc vào loại “khủng”.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 16

Bộ sưu tập đèn bằng pha lê trong suốt của “vua đồ cổ Sài thành”

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 17

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 18

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 19

Những con vật thân thương, gắn liền với cuộc sống nông thôn Việt Nam cũng nằm trong bộ sưu tập của “vua đồ cổ”.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 20

Tẩu hút thuốc của các vị quan, chức sắc ngày xưa. Có tẩu làm hoàn toàn bằng ngọc.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 21

Chiếc chuông cổ có niên đại cách đây hơn 200 năm. Ông Cường kết duyên với sưu tầm cổ vật cách đây 46 năm và thừa hưởng “máu” sưu tầm cổ vật của ông nội và cha.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 22

Bộ sưu tập về tượng các cô gái thời xưa. Ngoài điểm trưng bày là căn nhà ông đang ở, hiện tại ông Cường còn có 2 địa điểm trưng bày cổ vật khác ở quận 7 và quận 9. Số lượng cổ vật khổng lồ này được ông sưu tập từ khắp nơi, cả trong và ngoài nước.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 23

Từ lúc biết chơi cổ vật đến giờ, ông Cường chỉ biết mua chứ không bán món nào. Bởi theo ông mỗi cổ vật đều có ý nghĩa và giá trị rất riêng.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 24

Nhiều món cổ vật của ông Cường được giới chơi đồ cổ thèm muốn nhưng không được. Có người đưa tấm séc để ông tự ghi số tiền vào nhưng ông vẫn nhất quyết không bán. Trong ảnh là bộ vòng ngọc, trang sức của cô gái trong gia đình quyền quý ngày xưa. Tổng giá trị cổ vật của ông Cường theo giới chơi đồ cổ đánh giá khoảng 100 triệu USD.

Ngắm kho đồ cổ "khủng" của "vua cổ vật Sài Gòn" - 25

Theo Dương Thanh (Khampha.vn)
Nguồn: http://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/ngam-kho-do-co-khung-cua-vua-co-vat-sai-gon-c46a640343.html

Bộ sưu tập báu vật “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình

Sau hơn 43 năm rong ruổi khắp nơi sưu tầm đồ cổ, hiện ông Đinh Văn Dần,sinh năm 1950, ở phường Bích Đào, (TP Ninh Bình) đang sở hữu hàng nghìn cổ vật quý giá.

Ông Dần, cho biết, trong bộ sưu tập cổ vật của ông có nhiều cổ vật mang tầm bảo vật quốc gia như: Bình, tháp, ấm, bát gốm sứ Lý Hoa nâu(thời nhà Lý); lư hương, ấm gốm thời nhà Mạc; đèn gốm đầu hạc nhà Lý; ấm rượu thời Lý; đèn nhà Trần; ghè thời Minh, đôi nghê thời Lê…

Với ông cổ vật quý không quan trọng được làm bằng chất liệu gì chỉ cần có có giá trị về thời gian, có tính thẩm mỹ cao. Chính vì thế bộ sưu tập cồ vật của ông rất phong phú và đa dạng về chất liệu như: Gốm sứ, đồng, đá, sắt, gỗ, ngọc…

Được biết, ngoài thú sưu tầm cổ vật ông Dần còn nhận sửa chữa, phục chế hoa văn, họa tiết cổ vật để kiếm thêm tiền sưu tầm thêm cổ vật.

Ông Dần chia sẻ: “ Tương lai tôi muốn xây bảo tàng để trưng bày hết những cổ vật mình có và sau này sẽ để lại toàn bộ cho con cháu tôi. Với tôi cổ vật quý là vô giá trị, nó là tinh hoa, là di sản của mỗi thời kỳ đất nước nên tôi muốn sưu tầm, gìn giữ và bảo về cho thế hệ mai sau. Tôi rất mong con cháu tôi sau này sẽ kế thừa thú chơi cổ vật của tôi gìn giữ, phát huy hết giá trị của cổ vật”.

Sau đây mời độc giả cùng chiêm ngưỡng bộ sưu tập cổ vật “siêu khủng” của ông Dần được phóng viên Báo Dân Sinh ghi lại.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 1Tốt nghiệp Đại học cơ điện Thái Nguyên loại ưu nhưng ông Dần không theo nghề mà lại say mê chơi, sưu tầm cổ vật.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 2

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 3Một góc trưng bày cổ vật quý của ông Dần.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 4

“Lọ Mai Bình (Tuyên Đức niên chế) cao 45cm thuộc loại gốm Việt cao cấp thời nhà Minh, được sản xuất, chế tác năm vua Tuyên Đức, đến giờ vẫn lành nguyên vẹn, đầy đủ hoa văn, chữ nghĩa. Ông Dần cho biết đây là món đồ đầu tiên ông mua và hiện tại giá trị quốc tế của nó là khoảng 15 triệu đôla. Hiện tại ông có 3 chiếc bình này.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 5Cận cảnh hoa văn tinh tế của một chiếc lọ Mai Bình.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 6Chiếc bình Lý Hoa nâu là một trong 4 cổ vật quý thuộc dòng gốm sứ thời nhà Lý. Nhiều người trả tiền tỷ nhưng ông không bán. Bình còn nguyên vẹn, họa văn, họa tiết từ 5- 7 tầng rõ nét như: Hoa sen quấn, hoa cúc,  hoa thị, người, phật, quỷ đội cánh sen. Theo lời ông cổ vật thời Lý mang đậm dấu ấn phật giáo vì thời đó đạo phật được tôn xùng và con là quốc giáo.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 7

Trong bộ sưu tầm của ông có nhiều cổ vật tầm cổ vật quốc gia như lư hương men ngọc lam sám thời nhà Mạc, cao khoảng 30 cm, lành tuyệt đối cao. Hoa văn trên lư hương gồm rồng, phương, chim, cánh sen và minh văn, thái cực nó mang ý nghĩa thể hiện sự tâm linh cao quý.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 8Đèn dầu gốm đầu hạc thời nhà Lý là cổ vật ông rất quý và tự hào vì cả nước có vài cái và trên bảo tàng Quốc Tế có một cái nhưng đêu bị sứt, mẻ, hỏng men và xấu không được đẹp bằng của ông.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 9

Chiếc mặt nạ Mo Mường của ông Dần được Unesco dán tem công nhận là di sản văn hóa.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 10

Đôi nghê thời Lê, cao 30cm, thân vảy rồng, mặt sư tử.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 11

Một chiếc bình rượu gốm sứ thời nhà Mạc, men lam, hình cá đâu chim, cao 20cm, rộng khoảng 7cm, trên thân ấm có hoa văn như dải lụa, ngư tảo.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 12Rìu đá cổ.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 13Ông Dần, sở hữu rất nhiều bình vôi thời Lý.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 14Ông Dần tận dụng chiếc phản để bày những cổ vật quý như: Rìu đá, rìu ngọc, dao ngọc, ngọc bội, bát…

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 15Những miếng ngọc bội quý có niên đại hàng nghìn năm từ các thời đại triều đình khác nhau.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 16Sinh ra ở vùng đất có nghề truyền thống chụp ảnh, và từng hành nghề chụp ảnh kiếm sống, ông Dần tự làm cho mình một bức ảnh với tên gọi “Người sưu tầm báu vật”.

Đỗ Đức

Nguồn: http://baodansinh.vn/bo-suu-tap-bau-vat–sieu-khung-cua-dai-gia-ninh-binh-d2088.html

“Lam xám” – dòng gốm độc đáo thời Mạc (TK 16) lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Gốm lam xám:
Có thể nói, triều Mạc (`1527-1593) là triều đại để lại nhiều dấu ấn về mặt kinh tế, quân sự, giáo dục và ngoại giao. Nhà Mạc vẫn lấy hệ tư tưởng Nho giáo từ thời Lê làm chính thống nhưng không hạn chế tư tưởng phi Nho khác. Do đó Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác được phục hồi khiến cho các công trình tôn giáo cũng được phát triển và thay đổi đáng kể. Cùng với các công trình kiến trúc đình, chùa được xây dựng thì làng nghề gốm sứ chuyên sản xuất những sản phẩm như chân đèn, lư hương…, sử dụng trong nghi lễ tại các không gian tôn giáo cũng phát triển đáng kể. Tiêu biểu phải kể đến một sưu tập vật dụng thờ cúng có màu men lam xám của người nghệ nhân tài hoa Đặng Huyền Thông – ông tổ của nghề làng gốm Chu Đậu (Hải Dương), những sản phẩm của ông mang đậm tính nhân văn và sắc thái riêng thời Mạc.

Thuật ngữ “gốm men lam xám” khởi đầu được các chuyên gia của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam dùng để chỉ một dòng gốm mà toàn bộ bề mặt được phủ một lớp men dày mầu xanh lam sẫm, đôi khi pha lẫn ghi xám hay ngả hanh vàng. Kế thừa kỹ thuật truyền thống của men lam và nâu rỉ sắt của khu vực lò gốm Chu Đậu, Hải Dương vào cuối TK 15, những nghệ nhân đã tạo ra một sắc men lam mới đó là lam xám. Chất đất tạo xương gốm dầy, thô và nặng. Theo các chuyên gia nghiên cứu, người thợ gốm này phải rất giỏi chế ngự ngọn lửa và làm chủ được chất liệu xương gốm thì khi nung sản phẩm có kích thước lớn mà men phủ mới dầy và đều đến vậy.

Bản vẽ: những hình rồng đặc trưng trang trí trên gốm lam xám thời Mạc.

Gốm lam xám được xác lập như một dòng gốm đặc biệt và độc đáo bởi việc kết hợp của việc trang trí bằng men phủ với kỹ thuật chạm nổi, dán – ghép hay khắc chìm trên mỗi sản phẩm. Loại hình sản phẩm gốm này đều có kích thước lớn như chân đèn, lư hương, mô hình tháp. Tất cả đều sử dụng kỹ thuật đúc chạm nổi, có khi phần trang trí được dán hay ghép vào sau. Còn minh văn được khắc chìm sau rồi mới tráng men. Đề tài trang trí trên sản phẩm thường là rồng hoặc các loại cánh sen, được thể hiện với nhiều kiểu khác như: rồng yên ngựa, rồng trong hình tròn, rồng uốn hình hoa 4 cánh, rồng trong hình lá đề, rồng chầu chữ Phúc, rồng có cánh.. ; cánh sen dài trong có hình rồng uốn, cánh sen dài trong có hình mặt trời có tua, cánh sen tả thực…

Từ năm 1991, TS. Nguyễn Đình Chiến – nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia – là người đã giành nhiều công phu và tâm huyết để lần lượt giải mã minh văn trên những sản phẩm của người nghệ nhân tài hoa này. Ông đã tập hợp và nghiên cứu khối tư liệu về những tác phẩm gốm lam xám ở các bảo tàng trong nước và quốc tế, từ đó xác lập một hệ thống tiêu chuẩn về dòng gốm này qua các mặt niên đại, kiểu dáng, hoa văn. Điều thú vị là những tác phẩm thuộc loại men này đều thuộc về một tác giả đó là Sinh đồ Đặng Huyền Thông, tên thật là Đặng Mậu Nghiệp và vợ là bà Từ Am Nguyễn Thị Đỉnh người xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay thuộc xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Những sản phẩm thuộc dòng gốm lam xám chỉ được sản xuất đơn chiếc hoặc trọn bộ theo đơn đặt hàng, chính vì thế mỗi sản phẩm của ông đều được coi là những tác phẩm quý giá mang giá trị trên thương trường cổ vật trong nước và quốc tế.

Dưới đây là một số hiện vật tiêu biểu cho dòng gốm độc đáo này.

1.Chân đèn gốm men lam xám thời Mạc

LSb.17248

Kích thước: 74cm

Niên đại: tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588).

Phần trên tạo dáng một bông hoa sen nở gồm 3 phần, trang trí nổi rồng đuổi, rồng uốn, bông hoa 8 cánh nhọn, dải hoa lá trong ô chữ nhật, rồng trong lá đề. Hai tai gắn trên miệng và thân là hia tượng rồng  có cánh. Phần dưới có vai và thân phình chạm nổi băng cánh sen  bên trong có bông hoa, băng vạch đứng song song,  đính nổi những bông hoa 8 cánh nhọn. Thân trên chạm nổi 4 rồng “yên ngựa” trong khung viền “nhĩ bôi”.Thân dưới chạm nổi băng cánh sen bên trong có bông hoa hay 2 vành trăng khuyết. Men phủ mầu lam xám, tô men nâu trên tai rồng và dải quai. Minh văn khắc hai dòng chữ Hán, có nghĩa: “Tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588) đời vua Mạc Mậu Hợp. Đặng Huyền Thông, xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm chế tạo”.

2.Lư hương gốm lam xám

LSb.17276

Kích thước:

Cao: 25cm

Đkm: 26,5cm

Niên đại: tháng 8, niên hiệu Diên Thành 5 (1582).

Lư có miệng loe, thân hình trụ, bụng phình kiểu tang trống đồng Đông Sơn. Xung quanh bụng có 2 dải quai lớn và 4 dải quai nhỏ đối xứng nhau. Trang trí nổi hình rồng có cánh trên dải quai, rồng yên ngựa. rồng hình tròn, vạch đứng song song, hoa 8 cánh nhọn, cánh sen bên trong có nửa bông hoa. Men phủ mầu vàng xám và xanh xám. Minh văn được khắc và đúc nổi trên các dải quai, vành miệng trong và ngoài của lư hương: ‘Lư chế tạo vào tháng 8, năm niên Thành 5(1582), Đàm Chân Phúc Lam cùng lớn nhỏ toàn xã Thượng Thụy, huyện Đan Phượng đều nhận phúc. Đặng Huyền Thông xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Lam Sách chế tạo. Tín thí quán Viên Dương. Khói hương thấu chín tầng trời; một niệm thông khắp ba giới. Đàm chân Phúc Lam cung tiến gủi các tổ tiên đến cõi cực lạc”.

  1. Lư hương gốm lam xám

LSb.13537

Kích thước:

Cao: 23 cm

Đkm: 37 cm

Niên đại: khoảng niên hiệu Hưng Trị (1588 – 1591) đời vua Mạc Mậu Hợp.

Lư có cấu tạo 3 phần: miệng đấu phía trên có viền nổi, cổ hình trụ, bụng phình kiểu tang trống đồng Đông Sơn. Xung quanh miệng chạm nổi cặp rồng yên ngựa trong khung chữ nhật chầu vào chữ “Phật”. Cổ đắp nổi 2 rồng cuốn trong có nửa bông hoa, răng cưa, vạch đứng song song  có đính bông hoa nổi. Men phủ mầu lam xám ngả vàng.

4 Lư hương gốm lam xám và nâu vàng

LSb.12817

Kích thước:

Cao: 33,5cm

ĐkM: 22,5cm

Niên đại: niên hiệu Đoan Thái (1585 – 1588).

Lư có cấu tạo gồm 3 phần rõ rệt, miệng tròn dấu, cổ hình trụ, bụng tròn dẹt. Xung quanh cổ có gắn 6 dải quai: 2 to và 4 nhỏ. Đối xúng từng đôi một. Miệng lư chạm nổi 2 cặp rồng yên ngựa trong khung chữ nhật chầu vào khung chữ “Tam bảo”. xung quanh co gắn 4 hình rồng cuộn tròn, 2 dải quai lớn chạm rồng yên ngựa đối nhau, rìa chạm 2 bông hoa nổi. Mỗi quai đính hai bông hoa nhỏ. Bụng lư chạm nổi hoa văn gồm các loại hoa cánh nhọn trong chạm nổi bông hoa; bông hoa nổi và rồng yên ngựa. Băng hoa văn này gồm 6 hình bằng nhau, đặt theo chiều kim đồng hồ. Men phủ trong 4 ô rồng tròn mầu nâu vàng, còn lại là mầu lam xám. Trong lòng và dưới đáy để mộc, mầu sét xám. Minh văn đúc nổi trên miệng lư 2 ô chữ tam bảo. Trên 4 dải quai nhỏ khắc 8 chữ Hán, nghĩa là ” Thiên hạ thái bình nhân dân yên vui”.

  1. Lư hương gốm lam xám

LSb. 13536

Kích thước:

Cao: 38cm

Đkm: 24,2 cm

Niên đại: niên hiệu Hưng Trị 2 (1589). Đời vua Mạc Mậu Hợp chế tạo.

Lư có miệng loe, viền gờ nổi phía ngoài, cổ hình trụ, bụng phình kiểu tang trống đồng, 4 chân quỳ. Xung quanh cổ lư có 2 dải quai và 4 dỉa quai nhỏ. Thành ngoài miệng, hàng trên chạm 2 cặp rồng nổi, chầu chữ Phúc , hàng dưới chạm nổi cánh sen to cánh sen nhỏ xen  nhau. Cổ lư chạm băng dây lá và rồng uốn trong hình nhĩ bôi. Diềm dưới cổ chạm băng văn răng cưa. Bụng lư chạm 5 băng văn gồm cánh sen bên trong có bông hoa, răng cưa, bông hoa 8 cánh nhọn trong ô chữ nhật. Chân quỳ chạm nổi mặt thú và vạch đứng song song, răng cưa và  2 vành trăng khuyết. Men phủ lam xám.

Minh văn khắc chìm và đúc nổi 10 dòng chữ Hán trên các dải quai và gờ miệng, sau mới phủ men lên trên. “Đặng huyền Thông, xã Hùng Thắng, huyện thanh Lâm chế tạo. Định Hương, Huệ Hương. Giảo thoát hương. Nguyễn Truyền, Nguyễn Nhân Phó, Hoàng Đức Đức Thọ, Nguyễn Đình Lân, Nguyễn Ư ở xã Thượng Ốc.

  1. Hai phần dưới chân đèn gốm lam xám

LSb. 13783 a&b

Niên đại: tháng 2, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589).

Cao: 60cm.

Phần trên chân đèn trang  trí nổi bông hoa trong cánh sen, vạch đứng song song, hình rồng trong ‘nhĩ bôi”, băng cánh sen. Phần dưới cả hai chân đèn đều có vai và thân trên phình thân dưới eo, chân đế choãi. Vai có băng hoa văn nổi 8 cánh nhọn. Thân trên có băng cánh sen, cánh to xen cánh nhỏ, phía dưới có 4 rồng uốn trong mặt tròn. Thân dưới hàng trên chia nhiều cánh cánh sen đứng , bên trong có hình rồng cuốn, hàng dưới có dải lá dải hoa trong ô chữ nhật. Chân đế chia nhiều tầng cấp, chạm nổi văn răng cưa, vạch đứng song song, bông hoa trong cánh sen. Men lam xám phủ cả phần trên và dưới có mầu vàng xám, xanh xám.

Minh văn khắc ở thân trên thuộc phần dưới có 14 dòng chữ Hán. Chữ được khắc chìm trong ô giữa các hình rồng, có nghĩa: “Chùa Tô Lai, thôn Thanh Kiểu, xã Thượng Ốc, huyện Từ Liêm. Tín chủ và thập phuowng công đức cùng những người cung tiến lớn nhỏ đều hưởng phúc. Chế tạo vào tháng 2 niên hiệu Hưng Trị 2(1589). Tín chủ là thái Bảo Đà Quốc Công cùng  thiện tín Nguyễn Quỳnh, Vũ Duy Phiên. Xã Biện Hàn gồm các ông Nguyễn Nhân Mỹ, Nguyễn Văn Ban, Nguyễn Trung, Vũ Bạt Tụy, Nguyễn Thịnh, Nguyễn Hạnh An. Người chế tạo là Đặng Huyền Thông, xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm.

Hiện nay, những tác phẩm thuộc dòng gốm lam xám được trưng bày và lưu giữ tại nhiều bảo tàng trong và ngoài nước, như: BT Hải Dương, BT Hà Tây, BT Hải Phòng, BT Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, BT Mỹ thuật Việt Nam; và một số các bảo tàng ở Hàn Quốc, Mỹ, Bỉ, Đức, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ… Chúng thực sự là khối di sản vô cùng quý giá  để chứng minh cho bạn bè năm châu về một dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời đã sản sinh ra những người con ưu tú. Vào ngày 10/2 âm lịch hàng năm, chính quyền và nhân dân thôn Hùng Thắng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ ông tổ nghề gốm tài hoa Đặng Huyền Thông tại đền thờ ông tại làng Hùng Thắng, xã Minh Tân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Vào ngày 10/2/2004 Bộ Văn hóa  Thể thao và du lịch đã ra quyết định xếp hạng di tích đền thờ Đặng Huyền Thông là di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Đinh Phương Châm (Phòng Quản lý hiện vật)

Chú thích ảnh:

  1. Ảnh 1 (Số đăng ký: LSb.17248): chân đèn, minh văn khắc cho biết sản phẩm do “Đặng Huyền Thông, xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm chế tạo”.
  2. Ảnh 2 (Số đăng ký LSb. 17276): Lư hương hai tai rồng trang trí rồng có cánh.
  3. Ảnh 3(Số đăng ký: LSb.13537): lư hương, quanh miệng chạm hai rồng chữ Phật.
  4. Ảnh 4(số đăng ký: 12817): Lư hương, minh văn khắc“Thiên hạ thái bình nhân dân yên vui”.
  5. Ảnh 5 (Số đăng ký LSb.13536): lư hương, minh văn cho biết sản phẩm doĐặng Huyền Thông, xã Hùng Thắng chế tạo”.
  6. Ảnh 6 (Số đăng ký LSb. 13783):  phần dưới chân đèn, minh văn cho biết sản phẩm do “Đặng Huyền Thông , xã  Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm chế tạo”.
  7. Bản vẽ: những hình rồng đặc trưng trang trí trên gốm lam xám thời Mạc.

Nguồn: http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Chuyen-khao/2015/04/3A9245FD/

Đồ gốm Bắc thuộc

Nghề sản xuất gốm thời Bắc thuộc tiếp tục phát triển trên cơ sở kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng gốm Trung Hoa.


Gạch xây mộ khai quật tại thôn Vũ Xá, xã Ái Quốc, huyện Nam Sách năm 1996



Bình gốm Bắc thuộc hình Con Tiện (TK 1-3) sưu tầm tại Kinh Môn năm 2011

Ngoài đồ đất nung mang nhiều dấu ấn Đông Sơn còn có các đồ gốm phủ men. Những đồ gốm hiện còn trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân thuộc giai đoạn này thường có nguồn gốc từ các ngôi mộ gạch xếp, mộ thuyền, mộ cũi. Niên đại các mộ khoảng thời kỳ Đông Hán, TK 1-3, Lục triều – Đường, TK 6 -7 hoặc cuối Đường, TK 9-10. Các ngôi mộ gạch xếp thường được xây dựng bằng loại gạch hình chữ nhật và hình múi bưởi, hoa văn in nổi trên rìa một cạnh: hình ô trám lồng, hình thoi, hình chữ S …Dấu tích của loại mộ gạch xếp mang phong cách Hán nên thường gọi là mộ Hán.

Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, nơi đây còn lưu  giữ nhiều di chỉ mộ Hán. Trong những năm qua Bảo tàng Hải Dương đã tiến hành khai quật các ngôi mộ Hán như: Ngọc Lặc, Toại An, Minh Đức (Tứ Kỳ) đống Dom, đống Cà, Kim Chi (TP hải Dương), An Sinh (Kinh Môn)… thu về nhiều hiện vật gốm thời Hán có giá trị.

Loại hình đồ gốm Bắc thuộc có men chủ yếu: ấm, âu, bát, đĩa, bình, âu, lọ, chén 2 tai (nhĩ bôi) … Đồ đất nung có: mô hình nhà, mô hình bếp, gạch xây mộ.

Đặc điểm chính của đồ gốm Bắc thuộc: không có đồ gốm loại kích  thước lớn, xương gốm dày, men mỏng thường không phủ trùm hết, màu men vàng ngà, xanh nhạt hay xám. Loại hình vò, hũ gốm thời Hán thường in nổi văn ô trám lồng, hình thoi, chữ S… Một số ấm có trang trí hình đầu gà, đĩa có hoa văn vòng tròn tiếp tuyến giống như trên trống đồng Đông Sơn. Nhiều loại hình đồ gốm tạo dáng tương tự đồ đồng cùng thời như ấm đầu gà, chén 2 tai, bình con tiện, bình có quai, bát chân cao… Đặc biệt là đồ gốm có minh văn trên gạch xây mộ đống Dom, đầu ngói ống có chữ Cúc Bồ đã được bổ sung cho sưu tập gốm Hán phong phú và đa dạng.

Nguyễn Thị Liên

Nguồn: http://sovhttdl.haiduong.gov.vn/baotanggom/Pages/chitiettin.aspx?newsId=4c93819d-5a6a-483d-b569-19f4116280bb

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo

Văn hóa Óc Eo – một nền văn hóa cổ ở Nam Bộ hình thành và phát triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII và sau đó được bảo lưu như một truyền thống ở nơi đây. Dấu tích cư trú của cư dân cổ được tìm thấy khắp lưu vực các con sông Cửu Long, Vàm cỏ, Đồng Nai. Di vật phổ biến trong các di tích khảo cổ học văn hóa Óc Eo từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn là đồ gốm. Không có vẻ rực rỡ tinh xảo như các loại đồ trang sức, không có vẻ hoành tráng mà diễm lệ như những pho tượng thờ bằng đá, đồ gốm trong văn hóa Oc Eo mang một vẻ đẹp giản dị nhưng không kém phần độc đáo vì đã thể hiện đặc trưng văn hóa tộc người và phản ánh nguồn gốc bản địa của nền văn hóa này.

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo có thể chia làm 3 loại hình chính:

Vật liệu xây dựng – kiến trúc (gạch, ngói, điêu khắc, phù điêu trang trí…), công cụ sản xuất (bàn xoa, chì lưới, dọi se sợi, nồi nấu kim loại…), đồ gia dụng (bếp lò, đèn, hũ, bình, nồi lớn nhỏ), đồ thờ cúng (bình Kendi, ly chân cao…). Về chất liệu, gốm Óc Eo hầu hết là đất nung xương gốm khá mịn, gốm màu đỏ hay nâu hồng hoặc xám đen, trừ các chén nhỏ và nồi nấu kim loại cứng chắc như sành do xương gốm pha nhiều sạn sỏi nên có màu xám. Ở đây chỉ xin được giới thiệu một vài loại di vật gốm phản ánh nhiều mặt đời sống của cư dân cổ ở Nam bộ – chủ nhân của nhiều công trình kiến trúc đền tháp đồ sộ mà nay chỉ còn là phế tích.

Phổ biến nhất là các bàn xoa – một dụng cụ của kỹ thuật làm gốm cổ. Dụng cụ hình nấm làm bằng chất liệu sét lọc kỹ khá mịn, màu trắng ngà hay hồng nhạt, cầm không có cảm giác chắc nặng, tay cầm hình trụ hơi thon ở giữa tạo núm cầm ở đầu, một số tiêu bản có những đường gờ ren để cầm cho chắc chắn. Mặt xoa hình tròn cong lồi có hoa văn khắc chìm khá sắc nét kiểu chân chim, dấu nhân haỳ những đường tròn đồng tâm cách đều nhau từ 1mm đến 2-3mm, cũng có tiêu bản mặt để trơn láng. Một lỗ nhỏ 0,5 cm xuyên dọc chính giữa tay cầm đến tâm mặt xoa. Công cụ này được sử dụng để “xoa” làm nhẵn láng bề mặt đồ gốm vì những đường “hoa văn” rất nhỏ có tác dụng khi xoa sẽ làm bề mặt đồ gốm nhẵn đều, mặt cong lồi và lỗ xuyên tâm làm giảm ma sát của mặt tiếp xúc, động tác nhẹ nhàng và nhanh hơn. Những tiêu bản mặt xoa không có hoa văn có chức năng làm nhẵn bóng áo gốm, tăng thêm vẻ đẹp cho sản phẩm. Kích thước phổ biến là chiều cao và đường kính mặt xoa xấp xỉ nhau: 6-8cm. Cá biệt có tiêu bản lớn khoảng 10-12cm nhưng chất liệu cứng chắc gần như sành, màu đỏ nâu hoặc xám đen, không có hoa văn, đó là các bàn dập làm các loại đồ gốm lớn như lu, khạp, nồi lớn… cho xương gốm chắc và mỏng đều. Loại dụng cụ này đến nay vẫn còn được sử dụng tại các lò sản xuất lu gốm ở Tân Vạn (Biên Hòa, Đồng Nai) và nhiều nơi khác.

Bếp lò (cà ràng): Đây là di vật tiêu biểu được tìm thấy trong nhiều di tích. Tuy chỉ còn các mảnh vỡ nhưng có thể nhận dạng di vật này qua sự so sánh với loại bếp lò bằng gốm hiện nay vẫn phổ biến ở Nam bộ. Di vật này có một số kiểu dáng:

– Ở giai đoạn sớm: Bếp lò hình chảo đáy rộng và khá bằng, trong lòng có 3 giá kê (hình trụ đầu hơi nhọn như sừng bò).

– Ở giai đoạn muộn: Bếp lò hình khay thắt ở giữa giống số 8. Có chân đế và thành lò cao, từ thành lò nhô ra 3 giá kê. Phần ngoài có thể để than tro nướng thức ăn.

Bếp lò đất nung – Văn hóa Óc Eo

Dù hình thức nào thì bếp lò gốm đều giống nhau ở chỗ cấu tạo phù hợp để có thể đặt trên nhà sàn hay ghe xuồng mà vẫn an toàn, lại có thể di chuyển dễ dàng. Điều đặc biệt là loại bếp lò gốm này đã được tìm thấy rất nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai thời tiền sử (niên đại từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay) vừa là vật dụng tìm thấy tại nơi cư trú, vừa là đồ tùy táng trong các ngôi mộ. Như vậy loại bếp lò gốm (cà ràng) này đã tồn tại và phổ biến trong đời sống cư dân vùng sông nước, cư trú trên nhà sàn hay ghe xuồng, suốt từ thời xa xưa. Vì vậy, việc gọi nó là “cà ràng” như cách gọi của người Khmer Nam bộ không có nghĩa là nó là di vật của người Khmer, mà chỉ là sự ghi nhận tên gọi hiện nay của loại bếp lò này.Các loại nắp vung bằng gốm khá đặc biệt vì là nắp đậy ngửa (núm cầm trên mặt lõm của nắp). Loại nắp này đặc biệt thích hợp đậy nồi, bình hũ sử dụng trên ghe xuồng, khi di chuyển tròng trành không bị rơi bể.

Đèn gốm: làm bằng chất đất chắc nặng, đế hình đĩa có vành và đường kình lớn hơn đĩa đèn để hứng tàn bấc. Chân cao để tiện cầm nắm và tạo độ cao cho đèn. Phía trên đặt một đĩa đèn đường kính nhỏ hơn đế, dĩa này có chỗ lõm để gác bấc đèn. Khi cần thì có thể đặt chiếc đĩa đèn này trên sàn nhà, sàn ghe xuồng hay trên bàn cũng được.

Đồ dùng nghi lễ tôn giáo:

Bình kiểu Kendi là loại bình có vòi thân hình cầu, phình tròn ở giữa, thu nhỏ ở cổ và đáy bình. Miệng bình loe cong. Kích thước của bình khá lớn, nhiều chiếc có hoa văn khắc vạch tam giác hay sóng nước ở thân. Có chiếc tô màu đỏ (thổ hoàng) hay tô màu đen chì rất đẹp. Điều đáng lưu ý là những bình bình Kendi thường được tìm thấy trong các phế tích đền tháp, hầu hết bị gãy vòi, dấu vết cho thấy sự “cố ý” đập gãy rời vòi khỏi thân bình. Vì vậy nhiều khả năng cho biết đây là di vật dùng trong các nghi lễ tôn giáo Bàlamôn, những chiếc vòi bình mang bóng dáng ngẫu tượng Linga – tượng trưng cho thần Siva.

Được tìm thấy cùng với những chiếc bình là nhiều chiếc ly chân cao trông giống ly uống sâm-banh, kiểu dáng khá “hiện đại”. Ngoài ra còn có những chiếc nắp gốm hình tháp có trổ lỗ, dùng để đậy bình “xông hương”.

Nắp gốm – văn hóa Óc Eo

Những loại đồ gốm tiêu biểu trên đây của văn hóa Óc Eo chỉ là một phần nhỏ trong kho tàng đồ gốm của văn hóa này. Di vật gốm cổ cho ta nhận biết về đời sống của chủ nhân văn hóa Óc Eo, những yếu tố văn hóa bản địa Đồng Nai – Cửu Long và những yếu tố văn hóa ngoại sinh từ vùng biển và hải đảo mang đến. Tuy nhiên, cũng như “số phận” của những di vật gốm – đất nung trong nhiều nền văn hóa cổ, dù mang vẻ đẹp bình dị mà sâu lắng hồn đất, cổ vật gốm của văn hóa Óc Eo chưa được nhiều người dành sự quan tâm tìm hiểu như đối với cổ vật bằng đá và kim loại quý.

Nguồn: https://khanhhoathuynga.wordpress.com/2009/05/11/d%E1%BB%93-g%E1%BB%91m-trong-van-hoa-oc-eo/

Đồ gốm Đồng Nai qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học

1. Ở Đồng Nai, công tác nghiên cứu khảo cổ học đã góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu về lịch sử của vùng đất này. Những di tích, di vật khảo cổ học ở Đồng Nai được phát hiện, nghiên cứu rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử gắn liền với công lao của của các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.

Hơn một thế kỷ với hàng trăm cuộc điều tra, thám sát, khai quật, khảo cổ học đã đưa ra ánh sáng hàng trăm di chỉ với hàng chục vạn hiện vật: công cụ sản xuất, sinh hoạt, đồ trang sức, đồ thờ, nhạc cụ… rất đa dạng, phong phú và những cấu trúc địa tầng văn hoá đã cung cấp một nguồn cứ liệu, thông tin quan trọng về niên đại, trình độ văn minh, hình thái xã hội của những lớp cư dân cổ Đồng Nai.

Từ những phát hiện lẻ tẻ lúc ban đầu vào những thập niên cuối thế kỷ XIX cho đến việc nghiên cứu hệ thống khoa học các di tích, di vật trên địa bàn Đồng Nai hiện nay, các nhà khoa học đã đưa đến những nhận định về một nền văn hoá cổ từng hình thành được định danh “ Phức hệ văn hoá Đồng Nai “ hay ” Văn hoá Đồng Nai “. Đồng Nai được biết đến với tư cách là một trong những trung tâm của buổi bình minh xã hội loài người. Nơi đây, từng chứng kiến sự hình thành, phát triển của cộng đồng người cổ thời tiền sơ sử cho đến những thế kỷ sau công nguyên, trước khi cư dân Việt đến khai khẩn vào thế kỷ XVI. Hàng loạt các di tích, di vật khảo cổ học đã góp phần làm sáng tỏ một nền văn hoá cổ xưa từng tồn tại và phát triển trên vùng đất này. Các di tích khảo cổ gồm các loại hình: cư trú, công xưởng, mộ táng, đền tháp… của cư dân cổ trải đều trên các địa hình đặc trưng của Đồng Nai từ vùng núi đồi tiếp giáp cao nguyên đến vùng đất đứt gãy phun trào đất đỏ ba – zan và cả vùng phù sa cổ các bồn trũng, vùng ngập nước cận sông, biển.

            Bên cạnh những chủng loại hiện vật đa dạng từ nhiều chất liệu khác nhau như đồ đá, đồ gỗ thì đồ gốm Đồng Nai được phát hiện chiếm số lượng khá nhiều trong các di chỉ khảo cổ học được phát hiện ở Đồng Nai. Điều này cho thấy, các cư dân cổ vùng Đồng Nai trong tiến trình phát triển của mình đã biết chế tác và sử dụng đồ gốm. Dựa trên những kết quả nghiên cứu khảo cổ học, chúng tôi mong được giới thiệu một số những di chỉ khảo cổ đã từng được phát hiện những hiện vật gốm tiêu biểu để người đọc có cái nhìn khái quát về đồ gốm cổ trên vùng đất Đồng Nai.

2. Một số di chỉ di chỉ khảo cổ học tiêu biểu trong văn hóa Đồng Nai:

            – Di chỉ Bình Đa ( thuộc phường An Bình, thành phố Biên Hoà ). Năm 1979,  di chỉ được khai quật lần thứ nhất. Rất nhiều hiện vật bằng đá, gốm được phát hiện, trong đó có hàng chục ngàn mảnh gốm Đồng Nai. Riêng trong hố khai quật số 1, các nhà nghiên cứu thu nhặt 38.000 mảnh gốm. Gốm Đồng Nai được làm bằng bàn xoay và nặn bằng tay, có độ nung cao, áo gốm được miết láng. Có 4 loại gốm ( phân loại theo màu sắc và chất liệu ): gốm đỏ và đỏ nhạt, gốm xám, gốm đen và gốm thô. Số lượng gốm được tranh trí hoa văn chiếm tỉ lệ cao. Hoa văn  được tạo bằng cách dập ( hình nan chiếu ), chải, vạch và miết láng. Đồ án thường thấy là các đường thẳng song song, lượn hình sóng, nửa đường tròn quay ( phiá trong có những hình nửa đường tròn nhỏ hơn, đồng tâm quay cùng một hướng ), hình răng sói và hình chữ nhật.

            Mặc dù, không có đồ gốm Đồng Nai nào còn nguyên vẹn hình dáng nhưng cũng có thể nhận dạng được một số loại hình như kiểu bát bồng có chân đế cao hình ống hoặc choãi ra, nhiều kiểu nồi, vò có đáy tròn, đáy lõm và đáy bằng.

            Năm 1992, đợt khai quật lần thứ hai thu thập được 105 đồ đất nung và 9.389 mảnh gốm vỡ thuộc các loại hình đồ đựng khác nhau. Trong đó, đồ gốm Đồng Nai còn nhận được dạng như: bình ( số lượng 1, dạng con tiện, được chế tạo bằng bàn xoay, xương màu nâu, vỏ phủ màu nâu gạch); hũ ( số lượng 2,  bị vỡ, chất liệu bằng đất sét pha cát thô, độ nung cao, xương cứng, áo phủ màu nâu sành, miệng loe vành ); đĩa ( số lượng 4, chất liệu sét pha nhiều bả thực vật, vỏ nhuyễn thể nghiền nát và cát thô, độ nung cao, xương gốm dày); gốm hình trụ ( còn gọi là “ gốm sừng bò ”, số lượng 5, chất liệu sét pha cát mịn, độ nung cao, xương rất cứng, đầu trụ thon tròn và nhọn ); bi gốm ( số lượng 49, đường kính trung bình của bi từ 1,8 – 2,6 cm ); gốm tròn ( số lượng 11 mảnh, trên thân có trang trí hoa văn thừng và chải mịn ); nồi nấu đồng ( số lượng 3, dạng tròn và bóp lại kiểu chuôi muỗng, thành gốm dày, đường kính rộng trung bình từ 11 – 14 cm, cao 5 – 8 cm ). Những mảnh gốm vỡ có 9.547 mảnh, trong đó có 3215 mảnh phần miệng, 63 mảnh nắp đậy, 411 mảnh đáy đế, và 3.858 mảnh thân. Trong số các mảnh thân  có 343 tiêu bản có gờ, 4.438 tiêu bản  trơn và 1077 tiêu bản có hoa văn.

Gốm Bình Đa đựơc chế tạo bằng tay ( chiếm tỉ lệ thấp ) và bàn xoay ở trình độ khá tiến bộ. Chất liệu gốm từ đất sét được lọc kỹ, pha cát mịn, bột vỏ nhuyễn thể, bã thực vật và một ít bột đá trắng, xám. Phần lớn hiện vật gốm Bình Đa có độ nung cao, xương có màu đen nhạt, xám, nâu và cứng chắc. Aó gốm có hai loại. Loại phủ màu bề mặt có màu như: nâu, nâu đỏ, xám vàng, xám nhạt, vàng nhạt, trắng đục, đen ám khói và đa màu; loại bôi màu trang trí trước khi nung với trình độ kỹ thuật cao có các màu chủ đạo là đỏ tươi, đen, nâu. Những tiêu bản hiện vật gốm Bình Đa các loại cho thấy cư dân cổ đã xử dụng những thao tác kỹ thuật như nặn vuốt, miết láng bằng tay, bàn đập – hòn kê, dải cuộn, gắn kết chân đế hay gờ nổi để tạo hình tuỳ theo chức năng của đồ dùng. Hoạ tiết trang trí trên gốm Bình Đa khá đa dạng như: văn chải, văn thừng, văn khắc, văn in, răng cưa, khuông nhạc, đường cung, sóng nước, hình tam giác, hình bầu dục, đường cắt chéo…

– Di chỉ Cầu Sắt ( xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh ): Di chỉ được khai quật tháng 12/ 1976. Niên đại đoán định 5000 – 4000 năm cách ngày nay. Di chỉ là loại hình cư trú của cư dân nông nghiệp sớm và là xưởng chế tác đồ đá và đồ gốm Đồng Nai. Đồ gốm Đồng Nai thu thập được hầu hết bị vỡ, không phục nguyên được. Số lượng gồm 15.786 tiêu bản, trong đó có 2.041 mảnh  miệng, 206 mảnh đáy, đế, 13.539 mảnh thân. Số tiêu bản gốm có hoa văn là 2.176 mảnh ( tỉ lệ 16% ), 11.363 mảnh trơn ( tỉ lệ 84% ). Gốm được chế tác bằng tay và bằng bàn xoay, hoa văn trang trí bằng bàn dập, lăn thừng và khắc vạch, lớp áo gốm mịn, có màu sắc khác với xương gốm. Có các loại gốm: gốm trắng, đỏ mịn; gốm đen thô; gốm đỏ thô và gốm đen mịn.Một số loại hình như: chậu và nồi ( có kích thước lớn, miệng loe, đáy tròn ), bát ( miệng loe, đế ghép, thấp ), “ đậu “ – còn gọi là bát chân cao, trên dạng hình đĩa, chân đế choãi cao; gốm tròn ( một số mảnh gốm được mài tròn, được dùi lỗ ở giữa ).

– Di chỉ Gò Me ( phường Thống Nhất, thành phố Biên Hoà ). Niên đại đoán định khoảng 3000 – 2500 năm cách ngày nay. Hiện vật gốm Đồng Nai thu được hàng trăm mảnh trong bề mặt và các địa tầng văn hoá. Có ba loại gốm: gốm trắng ( chiếm số số lượng ít ), gốm đen và gốm đỏ. Hoa văn được tạo bằng kỹ thuật chải, dập và in thừng. Một số loại hình thu thập được như dọi xe sợi, bi gốm, chén rót đồng ( miệng phẳng, thành dày, đáy tròn ),  dạng bát mâm có chân đế cao, choãi rộng.

– Di chỉ Suối Linh thuộc địa phận phân trường 3,lâm trường Hiếu Liêm ( huyện Vĩnh Cửu ). Năm 1985, di chỉ Suối Linh được khai quật. Hiện vật gốm thu thập được gồm 39 chiếc bàn xoa, 1 mảnh gốm tròn, 1 thỏi gốm hình trụ; ngoài ra còn có 15.780 mảnh gốm vỡ của đồ đựng và 397 mảnh vỡ từ các bàn xoa. Gốm Suối Linh thuộc loại gốm thô, pha nhiều cát, bã thực vật và vỏ nhuyễn thể nghiền vụn. Aó gốm có màu nâu đỏ, nâu sẫm, xương gốm có màu nâu nhạt hoặc cùng màu với áo gốm. Loại gốm có xương đen không nhiều; gốm mịn có màu xám nâu hay xám vàng chiếm tỉ lệ khoảng 15% tổng số gốm thu nhặt được. Những mảnh gốm vỡ cho thấy các các loại đồ đựng dạng nồi, vò có miệng loe, hông và đáy tròn khá phổ biến trong cư dân cổ từng cư trú tại đây. Một số ít đồ gốm có miệng khum, phía dưới có đế. Khoảng 14% mảnh gốm trong tổng số thu nhặt có hoa văn, chủ yếu là văn chải ( tỉ lệ khoảng 90% ), số còn lại là các loại văn miết, in, khắc vạch và đắp nổi. Di chỉ Suối Linh là địa điểm đầu tiên thu nhặt được số lượng bàn xoa gốm khá cao. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể di chỉ là công xưởng sản xuất đồ gốm nói chung hay bàn xoa gốm nói riêng của cư dân cổ để trao đổi với các khu vực khác. Niên đại di chỉ được ước định khoảng 4.500 năm – 2.500 năm cách ngày nay.

– Di chỉ Suối Chồn thuộc địa phận xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh. Tại di chỉ, đồ gốm Đồng Nai thu nhặt qua các đợt đào thám sát và khai quật khá phong phú. Đồ gốm có dọi xe sợi, bi gốm, núm gốm và nhiều mảnh vỡ; đặc biệt có các nồi gốm ( chum ) dùng để chôn người chết. Nồi gốm dùng làm quan tài này có chiều cáo 50 cm, đường kính thân 60 cm, đường kính miệng 45 – 50 cm, miệng loe, đáy lồi tròn, có văn chải trên thân nồi. Đồ gốm di chỉ Suối Chồn có nhiều loại thô, min và xốp. Hầu hết, chúng được làm bằng đất sét pha cát, có bàn xoay, độ nung khá cao. Gốm có các loại màu xám, đỏ gạch, xanh xám, hồng nhạt. Loại hình nồi gốm có miệng loe, nồn miệng thấp. Hoa văn trang trí là văn chải, văn khắc vạch hình tam giác cân có vạch đường song song, loại hoa văn này phổ biến ở di chỉ Cái Vạn ( Nhơn Trạch ). Niên đại ước định khoảng nửa sau Thiên niên kỷ I trươc Công nguyên.

Cụm di chỉ Hàng Gòn là tên gọi chung cho nhiều địa điểm mà các nhà nghiên cứu đặt tên theo số thứ tự từ 1 đến 10 – nay thuộc địa phận thị xã Long Khánh và huyện Cẩm Mỹ. Trên khu vực rộng lớn của Nông trường Hàng Gòn, các nhà nghiên cứu phát hiện rất nhiều hiện vật khảo cổ  thuộc các thời đại trong thời kỳ tiền sử. Tại địa điểm Hàng Gòn 1( còn có tên Núi Gốm, đồi đất đỏ ba zan giữa Suối Râm và Suối Sâu ), những mảnh gốm Đồng Nai phát hiện chủ yếu là các dạng nồi, bát, tô, đĩa ( một số bát, tô có đế và có dấu khoan thủng ở đáy hoặc gần miệng ). Loại xương gốm đen làm bằng đất sét trộn với bả thực vật và loại xương gốm trắng có trộn cát thạch anh, phen phát, sạn sắt, Các loại gốm đều mịn, áo gốm có màu nâu, đỏ, độ nung cao. Địa điểm Hàng Gòn 3 ( cách trung tâm Nông trường Hàng Gòn khoảng 1 Km về phía đông ) thu thập được những mảnh thân gốm mỏng từ các loại nồi, vò và 1 bi gốm.  Xương gốm màu đen, áo màu nâu vàng, hồng và nâu đỏ, độ nung kém. Một số mảnh dạng miệng cốc, bát chân cao đáy bằng và nắp đậy có núm. Hoạ tiết trang trí là những đường song song, chéo nhau được in hoặc dập. Địa điểm Hàng Gòn 4 ( phía bắc chân núi Cẩm Tiêm ) có những tiêu bản gốm mỏng, có xương đen, xám, đỏ, vàng và được làm từ sét pha thạch anh, phen phát. Hoa văn răng lược hoặc đan. Địa điểm Hàng Gòn 5 ( cách chân núi Cẩm Tiêm 3,5 km về phía Bắc ) phát hiện nhiều mảnh gốm với các màu đa dạng. Gốm màu vàng đỏ, xương xám pha nhiều cát, hạt phen phát  chủ yếu từ các đồ đựng như nồi, vò, có mảnh miệng có đường gờ để đậy nắp. Gốm màu đen pha thạch anh, độ nung cao; chủ yếu là các đồ đựng kích thước nhỏ, trang trí văn thừng, văn đan và dấu in vải. Gốm có xương màu xám pha cát mịn, dáng nồi nhỏ hay lọ có miệng xiên, độ nung cao. Hầu hết được chế tác bằng bàn xoay. Niên đại khoảng 3000 năm cách ngày nay.

– Di chỉ Cái Lăng thuộc địa phận xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch. Di chỉ được khai quật năm 2000. Niên đại khoảng 2900 – 2700 năm cách ngày nay. Đồ gốm Đồng Nai thu thập được trong đợt khai quật chiếm số lượng lớn gồm: những đồ gốm còn nguyên dáng có 1 dọi xe chỉ, 7 bi gốm, 10 mảnh cà ràng, 1 bát, 1 đĩa, 1 bàn dập, 11 chân đế, 1 nắp đậy; mảnh gốm có 172.383 tiêu bản. Có hai nhóm gốm: gốm thô và gốm mịn. Gốm thô có độ nung thấp, thành phần phôi gốm có trộn nhiều cát, sạn và một số ít chất phụ gia như tro mùn, bã thực vật và cả nhuyễn thể đã được nghiền vụn. Lớp áo gốm mỏng, có màu nâu, vàng nhạt hoặc màu đỏ. Kỹ thuật chế tạo bằng bàn xoay kết hợp  với nắn sửa bằng tay, dụng cụ bằng tre, gỗ. Nhóm gốm mịn có chất liệu đất sét mịn, chất phụ gia như cát cũng được lựa chọn kỹ. Lớp áo gốm thường có màu nâu, có khả năng được tạo từ lớp phủ quét hay tráng lớp bột mịn, sau đó được xoa và miết nhẵn. Độ nung cao và được tinh luyện nên chắc, cứng. Hầu hết, những mảnh gốm vỡ Cái Lăng là những vật dụng của con người cổ như đĩa, bát, vò có đáy tròn, đáy bằng và có chân đế.

Gốm Đồng Nai có hoa văn thu thập tại Cái Lăng ít nhưng đa dạng về loại hình. Các loại hoa văn được thể hiện như: đường vạch ngắn, đường viền và những đường viền ngang song song, các đường sóng kết hợp với đường vạch, hoạ tiết các hình tam giác, hình sao, hình chữ V, đường chéo, đường vạch lõm, mảnh nhọn, hình hạt đậu ấn lõm, miết vạch ô lưới hay đường cong… để  trang trí. Phần lớn, hoa văn được khắc vạch trên nền văn chải.

– Di chỉ Cái Vạn thuộc xã Long Thọ huyện Nhơn Trạch. Di chỉ được đào thám sát năm 1977 và khai quật lần thứ nhất vào năm 1978. Đồ gốm Đồng Nai thu thập được trên 1.000 mảnh. Hầy hết, đồ gốm được làm từ đất sét pha cát, hạt thạch anh và bả thực vật. Có hai nhóm gốm: loại gốm mịn có xương màu xám đen và xám hồng, lớp áo mịn màu xám đen và xám vàng; loại gốm xốp có khoảng 20%, xương gốm màu đen, nhiều bả thực vật, thường dày và thô. Đa số các mảnh miệng gốm thuộc loại loe với nhiều kiểu dáng. Chân đế có 3 loại: đế thấp, đế hình chóp ( loe xiên ), và đế hình trụ cao có phần dưới hơi choãi. Khoảng 30% mảnh gốm có hoa văn, được tạo bằng cách chải, dập thừng, khắc vạch và chấm dải. Văn khắc vạch có những đồ án khác nhau như hình tam giác nối nhau, hình sóng…Phần lớn các mảnh gốm bị vỡ từ những loại đồ dùng để đựng của cư dân cổ, ngoài ra còn có một số mảnh chân kiềng giống sừng bò và bi gốm.

Năm 1996, di chỉ Cái Vạn được khai quật lần thứ hai. Đồ gốm thu thập được trên 17.854 mảnh, gồm các loại: dọi xe chỉ ( số lượng 1), bi gốm ( số lượng 70, đường kích trung bình từ 1,2 – 2 cm, một bi gốm lớncó đường kính 5,3 cm ), núm và bàn xoa gốm ( số lượng 32, núm được vuốt nhọn với mặt cắt ngang hình tròn, bàn xoa có chuôi cầm gần thẳng hoặc cong, mặt phẳng hoặc hơi lượn cong ), mảnh cà ràng ( số lượng 736 ), gốm tròn ( số lượng 22), được ghè hoặc mài tròn, đường kính trung bình từ 3 – 5,5 cm ); mảnh gốm vỡ ( số lượng trên 15.953 ). Chất liệu gốm làm từ đất sét phù sa sông pha nhiều cát, bã thực vật và  bột vỏ nhuyễn thể. Có hai nhóm gốm: gốm cứng và gốm xốp trong đó, gốm cứng chiếm tỉ lệ cao. Hoa văn gốm khá phong phú như văn chải ( văn chải thô và mịn ) thường dùng que có rãnh tạo thành; văn thừng thường kết hợp với văn chải; văn khắc vạch và in ấn thường được tạo với các kỹ thuật chải, đập, miết. Những mô típ hoa văn như hình mũi giáo ( răng sói ), đường sóng nước, đường vạch chìm song song  được thể hiện trên đồ gốm Cái Vạn. Một số lượng lớn tiêu bản gốm được bâo phủ nhiều màu có tính chất trang trí, thể hiện trên nhiều vị trí của đồ đựng. Niên đại di chỉ Cái Vạn đươc xác định 3.360 + 80 năm cách ngày nay.

Di chỉ Bình Xuân thuộc xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, cách núi Chứa Chan khoảng 3 Km về phía Tây Bắc. Nhiều hiện vật của cư dân thời tiền sử được phát hiện, trong đó có nhiều mảnh gốm vỡ. Gốm Bình Xuân có chất liệu tố, pha nhiều cát và bả thực vật; trong đó có nhiều mảnh có lẫn những hạt thạch anh màu trắng, độ nung cao, độ cứng chắc. Xương gốm có màu đen hoặc xám nâu; mặt ngoài bị bào mòn khá nhiều, gồm ba loại cơ bản: đỏ nhạt, vàng và xám nâu. Một số mảnh gốm còn in dấu văn chải mịn. Đồ gốm chủ yếu là từ các loại miệng loe khum, mép nhọn; phần cổ thường được chế tác kiểu có gò nổi cao làm cho thành miệng lõm cong hình lòng máng. Một số ít mảnh thuộc các dạng miệng gốm loe phẳng hay ưỡn cong; một số miệng có mép đáy vo tròn – loại hình này thường xuất hiện phổ biến trong các di chỉ khác ở Đồng Nai. Niên đại đoán định khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II trứớc Công nguyên.

Di chỉ Đồi Mít thuộc ấp Bình Lộc xã Xuân Bình, thị xã Long Khánh ( cách di chỉ Suối Chồn khoảng 3 km về hướng nam và di chỉ Cầu Sắt  2 Ka Mài về hướng đông ). Đồ gốm Đồng Nai phát hiện tại Đồi Mít là những mảnh gốm vỡ vụn, có chất liệu tương đồng với gốm tại di chỉ Bình Xuân. Trong một số xương gốm thường có lẫn nhiều mảnh thạch anh, sạn sỏi. Loại gốm đỏ nhạt chiếm tỉ lệ nhiều hơn so với gốm vàng xám nâu. Các mảnh gốm dạng mịeng chủ yếu có hình loe đơn giản, mép miệng dày, được vuốt thành gờ phía ngoài và mỏng dần xuống phía cổ. Một số ít miệng gốm dáng đứng thẳng, cổ thắt thành ngấn; một số mảnh miệng gốm mép ve tròn và loe khum dáng hình lòng máng. Niên đại tương đồng di chỉ Bình Xuân.

Di chỉ Rạch Lá thuộc ấp Quới Thạnh, xã Phước An huyện Nhơn Trạch được khai quật năm 2002. Bên cạnh hiện vật đá, gỗ, đồ gốm Đồng Nai thu thập gốm các loại: bi gốm ( số lượng 8 ), mảnh cà ràng ( số lượng 1 ) và 508 mảnh gốm vỡ. Các mảnh gốm vỡ gồm nhiều loại, trong đó, gốm miệng ( số lượng 135 tiêu bản, miệng loe, mép vê tròn hoặc có gờ mái,  dáng miệg đứng ); chân đế ( số lượng 51 tiêu bản, gồm loại chân cao và chân thấp, đáy bằng); mảnh thân ( số lượng 322, kích thức nhỏ do bi phân rã ). Phần lớn là gốm thô, chất liệu sét pha nhiều cát, một số mảnh pha bả thực vật. Aó gốm màu nâu và xám nhạt. Độ nung cao và xương gốm cứng. Hoa văn trên các mảnh gốm chiếm tỉ lệ thấp, văn chủ yếu là văn thừng, khắc vạch, chấm dải với hoạ tiết các đường song song, gấp khúc chữ chi, đường cong lượn sóng, hình tam giác. Niên đại đoán định di xhỉ Rạch Lá vào khoảng 3.200 năm cách ngày nay.

Di chỉ Phước Tân nằm trên ngọn đồi thấp, có độ cao khoảng 25 m ở hữu ngạn sông Lá Buông thuộc địa phận xã Phước Tân huyện Long Thành. Bên canh hàng ngàn hiện vật đá có 615 hiện vật gốm Đồng Nai được phát hiện trên diện tích 2 héc ta. Đồ góm ở Phước Tân có một số loại như gốm đỏ thuần, đỏ nâu, đen và gốm xám vàng. Xương gốm có màu đen, trộn lẫn sạn latêrít, thạch anh, phen phát hoặc cát mịn. Hoa văn trang trí phần lớn là văn in hoặc những đường song song và cắt chéo nhau, hình tam giác hay răng sói (rất hiếm ) và những đường chấm dải; loại văn thừng có nhưng chiếm tỉ lệ thấp. Những mảnh gốm vỡ ở di chỉ là từ các loại nồi đáy tròn, bát bồng (loại nhỏ còn được gọi là cốc có đế loe ), bát tô…và hai bi gốm. Niên đại  của  chỉ Phước Tân được nhà nghiên cứu H.Fontaine đoán định vào khoảng 3.500 – 3000 năm cách ngày nay ( thời đại đồng thau ).

Di chỉ Hưng Thịnh thuộc địa phận xã Hưng Lộc huyện Thống Nhất. Đồ gốm Đồng Nai phát hiện qua các cuộc thám sát gồm có hai loại khác nhau về chất liệu. Loại bằng sét mịn, xương mỏng, đều, nhẵn; màu nâu đỏ, nâu hồng; miệng loe ( khum hoặc xiên ), chân đế thấp dạng hình trụ, hoa văn được in dập văn thừng mịn. Loại  bằng sét mịn pha nhiều hạt đá nhỏ màu trắng xám, áo gốm màu nâu nhạt, nâu đỏ, miệng loe khum hình lòng máng, loe khum và xiên, đế thấp hơi choãi cao, dáng tròn. Niên đại Hưng Thịnh được đoán định thuộc thời kỳ kim khí, vào khoảng 3.500 – 4000 năm cách ngày nay.

Di chỉ Suối Đá ( còn gọi là Hàng Gòn 9 ) thuộc địa phận Nông trường Hàng Gòn, cách thị trấn Xuân Lộc 10 km về hướng Tây Nam. Đây là khu mộ chum, nằm trên vùng đất đỏ ba zan, cạnh suối Gia Liêu. Di chỉ do nhà ngiên cứu E.Saurin phát hiện vào những năm 60 của thế kỷ XX. Tại đây có trên 60 chum gốm Đồng Nai, chiều cao từ 20 đến 150 cm. Chum gốm được phân thành 3 loại: loại có hông gần đáy, vành mép rộng, miệng loe; loại chum hình quả trứng được tạo do kỹ thuật dải cuộn, có hoạ tiết đường song song trên nền văn chải hình răng lược; loại chum có đát trũng, miệng loe, không có hoa văn. Ngoài ra còn có các hiện vật  gốm khác như: bình ( nhiều đáy bằng, đáy trũng, miệng hẹp và rộng, mép mỏng ), nồi ( miệng loe, vành mép thấp, có hoa văn ), cốc ( miệng tròn, đáy phẳng ), đĩa, chân đèn, nắp đậy, dọi xe sợi ( hình chóp cụt ), khoanh gốm ( dạng hình ống ). Niên đại 2.300 + 150 năm cách ngày nay.

Di chỉ Phú Hoà cách thị trấn Xuân Lộc 3 km về phía Nam, ven quốc lộ I. Trong thập niên 70, thế kỷ XX, nhà nghiên cứu H. Fontaine phát hiện 46 mộ chum bằng gốm Đồng Nai. Chum cao có chiều cao 75 cm, đường kính thân 40 – 80 cm, đáy hơi cong. Chất liệu làm chum từ sét pha cát hạt lẫn khoáng vật. Aó gốm được miết láng màu đỏ hồng, một số trang trí hình xoắn ốc tạo thành dải các chữ S nghiêng nối tiếp hoặc cách đều nhau. Ngoài 46 chum, hiện vật gốm còn có: nồi ( số lượng 7, đáy tròn, hoa văn trang trí hình răng sói ), bình cổ thắt ( dáng tròn và hình quả trứng ), đĩa ( số lượng 38, kích cỡ khác nhau, đáy bằng và uốn cong ), bát mâm bồng ( vỡ phần trên, hình trụ giữa và đế nón ), bi gốm ( số lượng 2, hình cầu và hình đĩa ), ống chỉ và một số mảnh chân đèn. Hoa văn gốm Phú Hoà được tạo bằng cách in dấu vải, chấm dải, miết láng hoặc những đường khắc vạch sâu ( phần đáy, bụng, cổ ); các hoạ tiết là đường băng song song, đường cong và nét gạch nhỏ, hình răng sói, đường xiên, đường lược sóng, hình chữ S. Niên đại trong khoảng 2.500 năm cách ngày nay.

Di chỉ Dầu Giây địa phận huyện Thống Nhất do E. Saurin phát hiện năm 1965. Bên cạnh số hiện vật đá thu được còn có 2 chum gốm không nắp và một số gốm vỡ. Dạng gốm từ các nồi có miệng loe đáy cong, bình cổ loe có vai, đĩa đáy phẳng hơi lõm, lọ nhỏ, chum bụng nở. Chất liệu gốm từ sét pha cát, than, bột tro bả thực vật và một số khoáng vật. Gốm được nung ở nhiệt độ cao, tạo dáng và trang trí bằng văn thừng, khắc vạch vơí các hoạ tiết vòng tròn, đường sóng nước, khuông nhạc, răng sói, xoắn ốc.

3. Tổng quan về đồ gốm Đồng Nai qua kết quả khảo cổ học

Loại hình: Trong những di chỉ khảo cổ học được thám sát, khai quật, hiện vật gốm Đồng Nai được phát hiện chiếm số lượng rất lớn. Trong đó, các tiêu bản gốm còn nguyên dạng chiếm tỉ lệ thấp, số mảnh gốm vỡ chiếm tỉ lệ cao. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã định dạng được nhiều loại hình. Hầu hết, các hiện vật gốm là từ những đồ dùng phục vụ cho cuộc sống của cư dân thời tiền sử.

            Các loại bình, hủ, vò: Loại bình, hủ còn nguyên dạng tìm thấy được trong các di chỉ khảo cổ rất hiếm.  Tại di chỉ Bình Đa, một chiếc bình phát hiện trên bề mặt di tích còn khá nguyên vẹn với dáng hình con tiện ( cao 22cm ), được chế tác bằng bàn xoay, độ nung cao. Nhiều mảnh vỡ gốm tại các di chỉ được định dạng là từ các đồ đựng như bình, hủ, vò chiếm số lượng khá nhiều. Các loại bình, hủ có nhiều kích cỡ, được làm từ sét pha bột nhuyễn thể, bả thực vật, cát và một số phụ gia khác với tỉ lệ vừa phải. Bình, hủ, vò thường có thân hình cầu dẹt hay quả trứng, đáy tròn, đáy bằng, đáy lõm; thân bình phình ở giữa, đôi khi có gờ ngấn, miệng loe. Riêng phần tạo dáng miệng rất đa dạng như: miệng khum, miệng loe, miệng loe xiên, loe choãi với các gờ đủ kiểu. Phần chân đế được tạo dáng đế bằng, đế choãi cao hoặc thấp.

            Nồi: Các mảnh gốm vỡ từ các loại nồi tìm thấy nhiều trong các di chỉ khảo cổ được thám sát, khai quật. Phần lớn chúng có kích cỡ vừa và nhỏ. Nồi có hai loại: loại miệng loe, mép tròn hoặc vuông, cổ thắt, bụng nở và thu hẹp dần về phía đáy, hoặc gãy khúc tạo thành phần hông; loại miệng loe hơi khum, cổ thẳng đứng, thân tròn đều hoặc gãy khúc tạo thành phần vai, đáy tròn, xương không dày. Nồi dùng trong việc đun nấu phục vụ nhu cầu ăn uống và dùng để nấu đồng nấu đồng ( di chỉ Gò Me : 1, Bình Đa: 3).

Chum: Hầu hết những chum gốm ( hay vò lớn ) được tìm thấy trong các di chỉ mộ táng thuộc thời đại kim khí như Dầu Giây, Hàng Gòn 9 ( Suối Đá ), Suối Chồn…Các tiêu bản chum thường có dáng hình cầu dẹt hay quả trứng, thân bụng nở, cổ thắt hẹp, miệng rộng, đáy hơi lồi tròn và gần phẳng. Chum có nhiều kích cỡ, chiều cao khoảng 40 – 60 cm, rộng ngang thân 40 – 50 cm. Màu sắc các loại chum khá đa dạng, xương có màu nâu, đen, lớp áo màu đỏ, hồng. Chất liệu từ sét pha cát thô thuộc laọi nham thạch thạch anh, phen xpát. Chum thường được cư dân cổ dùng để chôn người chết và đồ đựng sinh hoạt.

Bát: Các mảnh gốm vỡ trong nhiều di chỉ có một số được định dạng từ các loại bát. Loại bát nhỏ tìm thấy ở di chỉ Cầu Sắt, Phước Tân. Chúng có màu đỏ, đen; chất liệu gốm mịn, miệng loe, đế ghép thấp. Loại bát bồng ( còn gọi là “đậu”, bát chân cao) có ở một số di chỉ như Cầu Sắt, Bình Đa, Phước Tân, Gò Me…Chất liệu từ loại sét mịn, màu trắng hoặc đỏ. Phần trên có dạng hình đĩa, loe rộng, miệng hơi khum, đáy hơi lồi; phần trụ tròn cao nối với đế có hình chóp hơi choãi cong. Một số tiêu bản có văn đắp dải hay khắc vạch. Một số bát bồng tìm thấy trong di chỉ thời đại kim khí có hai cặp lỗ thủng gầm mép miệng; chiều cao từ 8 – 11 cm, đường kính miệng 15 – 22 cm, có loại nhỏ với kích cỡ cao 6- 8 cm, rộng miệng 10 – 13 cm .

Đĩa: Một số đĩa nhận dạng qua các gốm vỡ tìm thấy tại các di chỉ như Cái Lăng ( số lượng 1), Bình Đa ( số lượng 4 ), Phú Hoà… Chúng không còn nguyên vẹn nhựng phục dựng được từ các mảnh vỡ. Chiếc đĩa ở di chỉ Cái Lăng có miệng rộng, đáy nông, miệng loe xiên, mép miệng có trang trí hoa văn dày hơn phần thân, giữa miệng và thân có đường gấp khúc. Những chiếc đĩa tìm thấy ở di chỉ Bình Đa có hai loại: đáy nông và đáy sâu. Một chiếc đáy sâu có miệng tạo thành vành bẻ gần như nằm ngang, xương dày, đáy cong đều, giữa thân và đáy có sóng nổi tạo thành ngấn, bề mặt đĩa có phủ lớp áo mỏng màu nâu. Ba chiếc đáy nông đồng dạng, đáy gần bằng, miệng được vuốt tròn và gần nhọn, đế trơn. Hầu hết các đĩa được làm từ chất liệu sét pha nhiều bả thực vật, bột vỏ nhuyễn thể và cát thô, độ nung cao.

Một số đĩa là đồ tuỳ táng, được chôn trong các mộ chum. Số đĩa nguyên vẹn tìm thấy khá nhiều, được xem là sản phẩm đặc trưng của di tích mộ chum ở Đồng Nai. Riêng tại di chỉ Phú Hoà, theo thống kê của H.Fontaine có 36 đĩa, chia làm ba loại: loại nhỏ có miệng gần thẳng đứng hoặc hơi loe, gần đáy có đường gờ nổi, đáy hơi lồi, miệng rộng; loại vừa có vành miệng rộng, gần mép thường có` cặp lỗ tròn đối xứng nhau; loại lớn có thành miệng gần thẳng đứng, đáy hơi lồi hoặc phẳng.

            Bi:  Hầu hết các bi gốm có dạng hình cầu, được làm từ sét mịn, độ nung vừa, thường có màu đỏ nhạt hay nâu. Đặc biệt, tại di chỉ Cái Vạn có một bi gốm vơí đường kính đến 5,3 cm được xem là lớn nhất trong số những tiêu bản bi được phát hiện ở vùng Đông Nam Bộ. Bi gốm được phát hiện tại một số di chỉ như: Bình Đa ( số lượng 50 ), Cái Vạn ( số lượng 78 ), Rạch Lá ( số lượng 8 ), Cái Lăng ( số lượng 7 ), Gò Me ( số lượng 3 ), Phước Tân ( số lượng 2 ), Phú Hoà ( số lượng 2 )…Các bi gốm này còn được xem là đạn mà các nhà nghiên cứu cho rằng cư dân cổ dùng trong việc săn thú nhỏ.

Dọi xe chỉ: Số lượng tiêu bản loại hình dọi xe chỉ được phát hiện trong các di chỉ khảo cổ ở Đồng Nai rất hiếm. Theo các tài liệu công bố trước đây, một số dọi xe chỉ được phát hiện tại, Gò Me ( số lượng 1 ), Cái Vạn ( số lượng 1), Suối Chồn ( số lượng 2 ), Hàng Gòn 9 ( số lượng 2 ), Cái Lăng ( số lượng 1). Hầu hết các dọi xe chỉ có màu hồng nhạt xen lẫn với màu xám đen, hình nón cụt, có lỗ nhỏ xuyên qua chính giữa, mặt cắt ngang thân hình thang dẹt, không có hoa văn. Chất liệu làm từ đất nung pha nhiều cát. Các dọi xe chỉ là dụng cụ cho thấy cư dân cổ Đồng Nai đã biết đến nghề xe sợi, dết vải.

Bàn xoa gốm: Đây là dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng cho các sản phẩm là đồ đựng bằng gốm. Bàn xoa gốm được phát hiện khá nhiều tại các di chỉ như Bình Đa, Cái Vạn ( số lượng 32 ), Suối Linh ( số lượng 39, 60 chuôi cầm và trên 300 mảnh vỡ ), Cái Lăng, Suối Chồn…Bàn xoa gốm có dáng hình chiếc nấm, gồm có chuôi và bàn xoa. Phần chuôi là hình trụ dạng núm được vuốt nhọn hoặc hơi loe ( một số tiêu bản có lỗ thủng chính giữa ), phần bàn xoa hình cầu, mặt tương đối trơn nhẵn, hơi cong lồi; rìa mép có gờ hoặc vê tròn. Bàn xoa có nhiều kích cỡ khác nhau. Công dụng của bàn xoa làm khi tạo dáng sản phẩm làm cho bề mặt trong đều, phẳng, nhẵn và phôi gốm dược nén cứng. Bàn xoa thường được làm bằng sét pha nhiều cát hạt lớn, bột vỏ nhuyễn thể, bã thực vật, sỏi sạn và lẫn vẩy mica. Chúng được làm bằng tay, độ nung cao, xương cừng chắc.

Mảnh gốm tròn: Trong số hàng nghìn mảnh gốm vỡ được phát hiện tại nhiều di chỉ khảo cổ trên đất Đồng Nai, trong đó có những mảnh gốm tròn với một tỷ lệ nhỏ. Hầu hết các mảnh gốm này từ những mảnh gốm vỡ của đồ đựng được đem mài, ghè tạo dáng hiình tròn với nhiều kích cỡ khác nhau. Trên bề mặt những mảnh gốm tròn vẫn còn giữ nguyên những áo gốm và hoa văn trang trí. Có mảnh được khoan thủng lỗ chính giữa. Các di chỉ phát hiện mảnh gốm tròn gồm: Suối Linh ( số lượng 1), Bình Đa ( số lượng 11 ), Cầu Sắt  ( số lượng 16 ), Cái Vạn ( số lượng 39 )…Cho đến nay, chưa xác định công dụng của loại di vật này. Có thể, các mảnh gốm tròn được dùng để trang trí vàv các mảnh có khoan lỗ để trang sức như đeo vào người hay vật.     

Cà ràng: Đây là một dạng bếp của cư dân cổ. Mỗi “ cà ràng ” có ba chân gắn với một bàn đế. Bàn đế thường có hình tròn, đáy hơi lồi, xung quanh có bờ che vừa. Các chân “ cà ràng “ được tạo dáng trụ tròn, thân hơi cong hoặc dẹt, đầu gắn đế tròn bằng, đầu trên hơi vuốt nhọn giống cái sừng bò( cho nên chúng còn có tên gọi là gốm sừng bò. Các chân “ cà ràng ” gắn lên chân đế theo kiều kiềng ba mà vị trí cách đều, thân hơi ưỡn ra, phía đầu chum vào vừa phải để nâng vật đun nấu mà chủ yếu là các loại nồi. Loại di vật “ cà ràng “ được tìm thấy ở một số di chỉ như: , Rạch Lá ( số lượng 1 ), Phước Tân ( số lượng 1), Suối Chồn ( số lượng 10 ), Cái Lăng (số lượng 10 ), Bình Đa ( số lượng 12 ), Cái Vạn ( 762 )…Các chân “ cà ràng ” có nhiều kích cỡ khác nhau, có lẽ tương thích với các bàn đế mà cư dân cổ chủ đích tạo dáng. Chất liệu làm từ sét pha nhiều bả thực vật, xương màu xám, đen hoặc xám đen. “ Cà ràng “ được xem là một loại vật dụng độc đáo của cử dân cổ ven sông nước.

Chất liệu và kỹ thuật chế tác: Trong các loại sản phẩm gốm được tạo nên qua các thời đại phát triển của con người, mọi vùng lãnh thổ, thành phần nguyên liệu chính yếu vẫn là đất sét. Hầu hết, các loại sản phẩm gốm của cư dân cổ Đồng Nai được chế tác từ chất liệu đất sét sẵn có trên địa bàn. Phụ thuộc vào địa bàn cư trú của cư dân cổ mà họ khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ để làm nên sản phẩm gốm dùng trong sinh hoạt. Với đặc điểm này, chúng ta có thể nhận thấy hiện vật gốm phát hiện tại các di chỉ cùng trên địa bàn cư trú có những nét tương đồng về sử dụng chất liệu sét, các chất phụ gia có trong từng sản phẩm gốm các loại. Các địa bàn cư trú khác nhau thì chất liệu sét dùng làm gốm phụ thuộc vào yếu tố thành phần hoá học sét tại chỗ. Cũng chính từ yếu tố này và phụ thuộc vào kỹ thuật chế tác, chủ đích làm sản phẩm mà tỉ lệ các loại gốm trong từng di chỉ có sự khác biệt. Mặc dầu, có những di chỉ được xem là loại hình di chỉ xưởng – nơi chế tác đồ đá, đồ gốm, thì sự trao đổi giữa các địa bàn rộng chưa đáng kể, chỉ phục vụ cho cộng đồng, nhu cầu của một địa bàn với quy mô vừa phải. Vì qúa trình trao đổi, giao lưu còn phụ thuộc nhiều vào đặc điểm địa lý của môi trường và điều kiện phát triển kinh tế mỗi cộng đồng cư dân cổ.

Chúng ta có thể hình dung về chất liệu để chế tác nên sản phẩm gốm cổ ở Đồng Nai chủ yếu gồm các thành phần sau: đất sét là thành phần chính; các chất phụ gia thường thấy là: bả thực vật, bột vỏ nhuyễn thể, bột tro, cát, sỏi sạn và các khoáng vật tự nhiên. Riêng về nguồn nguyên liệu chính là đất sét thì phụ thuộc vào nơi chúng được khai thác.

Đồ gốm di chỉ Cầu Sắt ( xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh ) được nhìn nhận như là đồ gốm cổ nhất ở Đồng Nai và cả vùng Nam Bộ. Nguồn nguyên liệu  để làm nên các sản phẩm gốm Cầu Sắt thuộc nhiều loại, chủ yếu từ đất sét núi và phù sa sông ( yếu tố vi lượng kẽm là 0,01%, phốt pho 0,1%), có loại sét cao lanh với thành phần chính là thạch anh, phen –xphát, một số khoáng vật như caolinit hiện diện trong sản phẩm khi chế tác nhưng bị huỷ trong quá trình nung; chất phụ gia gồm có cát, bã thực vật, hạt đá. Các di chỉ trên địa bàn vùng đồi núi, đất đỏ ba zan như Cầu Sắt, Núi Gốm, Hàng Gòn, Dầu Giây, Phú Hoà…thì nguồn nguyên liệu chính là sét núi ( chiếm tỉ lệ 70 % ), chất phụ gia là sa thạch khá đa dạng. Đồ gốm di chỉ Bình Đa làm từ đất sét lọc kỹ, có pha thêm cát mịn, vỏ nhuyễn thể được nghiền nát, một tỉ lệ nhỏ bột đá màu trắng và bã thực vật. Tại di chỉ Suối Linh, Suối Chồn, Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Phước Tân… hầu hết  đồ gốm cũng có những nét tương đồng về chất liệu với gốm Bình Đa, đặc biệt có thêm chất phụ gia như trò bùn; có thể chất này có sẵn trong sét phù sa sông ( khu vực hạ lưu sông Đồng Nai ) hay được cư dân thêm vào trong chế tác.

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thành phần hoá học, phương pháp quang phổ về chất liệu gốm cổ ở Đồng Nai, một số nhà nhà khoa học cho biết những khoáng vật phụ gia trong gốm cổ Đồng Nai có thể khai thác từ nhiều doi cát phù sa ven các sông, suối bắt nguồn từ hướng Đông Bắc của địa hình chảy qua những vùng có hoặc không phủ ba zan đến Xuân Lộc – Long Khánh. Phụ gia bắt nguồn từ nhiều nguồn khoáng vật như: khoáng gốn ba zan ( gồm olivine, fero-magésien, spinelle liménite ); khóng gốc granit ( gồm hornbleinde, zircon, mica, rulite, micro-granit, rhyolite/ quartz, corrodes ); đá biến chất ( staurtile); đá trầm tích ( grès, latérite- écomicte ferrogineux, felsat…). Phụ thuộc vào nguyên liệu và tỉ lệ pha chế các chất phụ gia và trình độ kỹ thuật chế tác mà tạo nên độ bền của một sản phẩm gốm.

Gốm cổ Đồng Nai trong các di chỉ khảo cổ học được chế tác bằng kỹ thuật bàn xoay chiếm vai trò chủ đạo và phối hợp với các thao tác kỹ thuật bằng tay trong nhiều công đoạn. Những loại hình hiện vật gốm chế tác thuần bằng tay chiếm tỉ lệ nhỏ. Dấu vết của kỹ thuật chế tác bằng bàn xoay thể hiện rõ nét từ vết mờ hay đường chỉ viền ngang phần đáy, miệng của những trên nhiều tiêu bản hiện vật gốm được phát hiện. Ngoại trừ các thao tác trong khâu chọn nguyên liệu, phụ gia thì các kỹ thuật thao tác bằng tay như dải cuộn ( tạo phôi ), nặn vuốt ( dáng mép miệng, tạo gờ, xoa bề mặt, miết láng… ), kỹ thuật hòn dập – bàn kê, kỹ thuật gắn kết chân đế, chải, khắc, tô màu…trong chế tác sản phẩm gốm thể hiện ở công đoạn tạo hình, tu chỉnh bề mặt, trang trí hoa văn.

Trên góc độ chính từ chất liệu và kỹ thuật chế tác, các nhà nghiên cứu đã phân ra làm các loại gốm chính trong các di chỉ khảo cổ học là gốm mịn,  gốm thô và gốm xốp. Điều này phụ thuộc vào khâu chọn nguyên liệu chính, tỉ lệ chất phụ gia và độ nung. Loại gốm mịn được chế tác với khâu nguyên liệu được tuyển chọn kỹ với chất liệu sét mịn, chất phụ gia chủ yếu là cát hay hoặc một số chất khác cũng được sàng lọc kỹ ( hạt mịn, nhỏ ), độ nung cao nên có độ cứng chắc đảm bảo. Loại gốm thô thì chất liệu không tuyển chọn kỹ ( kích cỡ hạt lớn ) và độ nung thấp; loại gốm xốp thì tỉ lệ chất phụ gia như bã thực vật, tro mùn…chiếm tỉ lệ khá lớn, độ nung thấp nên chúng dễ bị thấm nước, không có độ bền.

Hoa văn: Hoa văn trang trí trên sản phẩm gốm cũng là  một tiêu chí để phân loại gốm: gốm có hoa văn và không có hoa văn ( gốm trơn ). Tại các di chỉ khảo cổ học Đồng Nai, hai loại gốm này đều được phát hiện nhưng tỉ lệ giữa chúng trong các di chỉ khác nhau. Hoa văn được thể hiện trên bề mặt của nhiều loại tiêu bản gốm và với chủ đích của người chế tác. Có những tiêu bản thể hiện nhiều hoa văn phong phú nhưng cũng có những tiêu bản được thể hiện một dạng hoa văn trang trí.

            Văn chải: được tạo nên từ những que dẹt dập tua đầu hay nhiều răng khá đều để chải bề ngoài phôi gốm tạo thêm độ cứng và tăng độ bám của áo gốm phủ ngoài. Vết rãnh chải thường sâu, chạy theo nhiều chiều ( dọc, xiên, cắt ngang hay chéo nhau ).

            Văn thừng: được tạo từ những bàn dẹt có cuốn dây thừng có nhiều kích cỡ khác nhau đập, lăn lên phôi gốm và bề mặt để tạo độ cứng, chắc cho sản phẩm. Văn thừng thể hiện trên gốm theo nhiều chiều khác nhau và thường bố trí kết hợp  văn chải.

Văn khắc vạch: được tạo nên từ các que, thẻ đầu nhọn hay tròn hoặc tạo răng với kích cỡ nhỏ, vừa. Văn khắc vạch thường thể hiện trên nền văn thừng, khá đa dạng với các đồ án trên nhiều phần bề mặt của sản phẩm.

            Văn in chấm, in dải: Tạọ nên từ các que hay thẻ hoặc đầu ngón tay được sử dụng theo chủ đích của người thợ như in từng chấm rời, nối tiếp nhau hay từng dải vạch chấm hay các dải đường ngang, thẳng, chéo, xiên nhau, song song hoặc các hình học…vào phôi gốm.

            Văn dập: được tạo nên từ các vật phẩm như tấm nan tre, nan chiếu có sẵn những đường gờ nổi, hay các hình hình học. Người thợ dùng dập vào phôi gốm. Một số ý nhiều ý kiến cho rằng văn dập là vết tích của việc  gốm khi vừa tạo dáng ( còn ướt ) được phơi trên những vật phẩm nói trên.            

            Văn đắp nổi: được tạo từ những dải đất sét tạo thành gờ, dải băng dài hay ngắn với nhiều kích cỡ, chế tác rời và đắp vào mặt gốm. Văn đắp nổi thường được gắn vào  mặt gốm chủ yếu ở  vai gốm thường thấy ở các laọi chum, vò.

Văn khoét – miết: được tạo bằng que dẹt có đầu bằng hay chỉ đơn thuần bằng ngón tay người chế tác ấn lên mặt trong của cổ gốm ( nơi tiếp giáp gữa phần cổ và thân, vai ) trên nền văn chải, văn thừng. Những rãnh hình lòng máng, những băng miết láng song hành với các dạng văn khác có tính chất trang trí cho sản phẩm.

Những đồ án, hoạt tiết hoa văn trên gốm cổ Đồng Nai rất phong phú, đa dạng. Chúng được thể hiện trên các bề mặt của sản phẩm như: các đường vạch, chỉ chìm hay chấm ( thẳng, song song, xiên, chéo nhau, cong, đường xoáy trôn ốc, đường lượn sóng, đường gãy rời nối tiếp nhau…), hình hình học ( tam giác/ răng sói, hình thoi, hình vuông / dạng ô lưới, nửa hình tròn, hình khuôn nhạc, hình bầu dục, hình răng cưa, hình hoa thị, hình sao…); hình chữ ( chữ V, chữ S ). Các đồ án, hoạ tiết được phối kết với nhau  từ một đến nhiều các loại văn, hoạ tiết được được thể hiện bằng nhiều kiểu ( nổi, chìm, lồi hay lõm, liên kết, cách rời…) tạo nên những mảng trang trí rất độc đáo trên bề mặt của sản phẩm gốm.

Ngoài các hoa văn được dùng trong trang trí gốm, trong gốm cổ Đồng Nai có xuất hiện loại gốm phủ màu hoặc bôi màu trang trí. Những dạng loại gốm này chiếm tỉ lệ vừa phải trong tỉ lệ các tiêu bản gốm phát hiện được tại các di chỉ khảo cổ. Riêng về loại gốm phủ màu để xử lý bề mặt trước khi nung chiếm tỉ lệ cao hơn dạng gốm bôi màu trang trí. Những bề mặt sản phẩm gốm phủ màu thường thấy rất đa dạng như màu nâu, nâu đỏ, đỏ nhạt, xám nhạt, xám sẫm, vàng, vàng nhạt, trắng đục, đen…Về màu phủ áo gốm có những ý kiến cho rằng đó là một dạng nhựa thực vật hoặc một loại khoáng chất được hoà vào trong nước pha đất loãng để xử lý trên bề mặt. Về dạng gốm có bôi màu trang trí chiếm tỉ lệ vừa phải trong số tiêu bản gốm và di chỉ khảo cổ được khai quật mà trong đó tiêu biểu là số tiêu bản thu thập được tại di chỉ Bình Đa. Về mặt kỹ thuật, lớp màu áo gốm trang trí cũng được thực hiện trước khi nung, có tác dụng làm bóng láng bề mặt sản phẩm bên trong và bên ngoài nhưng chủ yếu là thể hiện nét thẩm mỹ của sản phẩm. Những sản phẩm gốm bôi màu trang trí thì bề mặt thường để trơn, rất hiếm sự kết hợp với các thủ pháp tạo hoa văn. Loại gốm bôi màu trang trí có những nét khác biệt là chúng được thể hiện có thể trên khắp bề mặt trong và ngoài hay từng bộ phận của sản phẩm. Màu sắc của màu bối trang trí cũng đa dạng nhưng chủ yếu là nâu, đen, đỏ tươi với các sắc độ khác nhau. Ngoài tính chất trang trí mỹ thuật thì màu bôi trang trí còn tác dụng tăng thêm độ bền của sản phẩm gốm.

***

Qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học nói chung, có thể thấy rằng vùng đất Đồng Nai là một trong những địa bàn hình thành và phát triển của những cộng đồng cư dân cổ. Trong quá trình tồn tại, cư dân cổ Đồng Nai đã thích ứng với môi trường địa – sinh thái và không ngừng sáng tạo để phát triển. Cư dân cổ Đồng Nai đã biết đến những nghề thủ công mà trong đó có nghề làm gốm với một trình độ kỹ thuật nhất định để thích ứng trong những điều kiện phát triển theo chiều hướng tích cực. Những di chỉ khảo cổ với số lượng hiện vật gốm được phát hiện trên các tiểu vùng địa lý đặc trưng cho thấy một sự phát triển về nghề làm gốm để phục vụ cho đời sống kinh tế xã hội nguyên thuỷ kể từ khi con người biết đến chăn nuôi và trồng trọt. Những sản phẩm từ nghề làm gốm với những công năng, công dụng đã tạo điều kiện thuận lợi nhiều mặt cho cư dân cổ từ vùng đồi núi hay đồng bằng, vùng cận biển trong chu kỳ vòng đời người của cá nhân cũng như sự tồn tại nói chung của cộng đồng. Tính chất đáp ứng nhu cầu cho cộng đồng và sự trao đổi, liên hệ giữa các cộng đồng thể hiện qua những di chỉ được đánh giá là di chỉ xưởng chế tác công cụ đá, gốm. Điều này phản ánh những bước tiến về trình độ nhận thức, khả năng sáng tạo và chiều kích kinh tế, xã hội của cộng đồng cư dân cổ.

Với niên đại đoán định của di chỉ Cầu Sắt từ 5.000 – 4.000 năm cách ngày nay thì có thể thấy rằng cư dân cổ Đồng Nai đã biết chế tác đồ gốm từ thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên. Đồ gốm phát hiện tại di chỉ Cầu Sắt rất đa dạng và được xem là hoàn thiện về các thao tác kỹ thuật chế tác gốm của con người cổ. Qua xem xét các sưu tập hiện vật gốm trong các di chỉ khảo cổ theo trục thời gian và mở rộng trên các địa bàn khác nhau: từ Cầu Sắt, Suối Linh, Núi Gốm…ở vùng cao cho đến Bình Đa, Gò Me…ở vùng ven sống hay Cái Vạn, Rạch Lá, Cái Lăng…vùng cận biển và ngược lên vùng đất đỏ ba zan Xuân Lộc, Phú Hoà, Dầu Giây, Suối Chồn… các nhà nghiên cứu ghi nhận được sự biểu hiện đa dạng, phong phú trong giai đoạn đầu và dần về sau hình thành một truyền thống gốm khá ổn định bắt đầu từ thời đại đá mới – đồng của cư dân cổ Đồng Nai / nghĩa là có một truyền thống chế tác gốm mang phong cách của cộng đồng người cổ Đồng Nai. Đặc trưng của truyền thống gốm Đồng Nai thời cổ là sự đa dạng về chất liệu, màu sắc, sự phong phú về, kiểu dáng, rắn chắc về chất lượng, mộc mạc trong trang trí, ổn định trong loại hình và dồi dào về số lượng. Đồng thời, ngoài những đặc trưng chung đã ổn định thành biểu hiện của truyền thống những đồ gốm cổ Đồng Nai có những sắc thái khác lạ tạo nên những nét chấm phá và sự sáng tạo cũa những nghệ nhân chế tác gốm như gốm được tô hay vẽ màu.

 Ths. Phan Đình Dũng

Tài liệu tham khảo

1. Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng. Khảo cổ Đồng Nai, Nxb Đồng Nai 1991.

2.Viện KHXH tại Tp.HCM, Bảo tàng Đồng Nai. Báo cáo khai quật di tích Khảo cổ học Cái Vạn.

3. Viện Khảo cổ học , Bảo tàng Đồng Nai. Báo cáo khai quật di tích Khảo cổ học Rạch Lá, Hà Nội 2002.

4. Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Văn Long. Điều tra và khai quật lần thừ hai di tích khảo cổ học Bình Đa, Năm 1993.

5. Trần Văm Dũng , Hà Văn Cẩn. Báo cáo điều tra thám sát khảo cổ học ở một số tỉnh miền Đồng Nam Bộ năm 2000 – 2001.

6. Lưu Văn Du, Nguyễn Đăng Hiệp Phố. Đồ gốm di chỉ Cái Vạn qua tài liệu khai quật lần II, năm 1976. T/c Khảo cổ học số 4/ 1998.

7. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Khảo cổ học. Báo cáo khai quật di chỉ khảo cổ học Cái Lăng lần thứ nhất, năm 2000, Hà Nội 2001.

8. Lê Xuân Diệm. Điều tra di tich khải cổ học Hưng Thịnh, năm 1977. Tài liệu Bảo tàng Đồng Nai.

9.Vũ Quốc Hiền, Phạm   Quốc Quân, Lưu Thành Mỹ. Khai quật di tích Suối Chồn đợt II ( tháng 4/ 1979 ), năm 1979. Tài liệu Bảo tàng Đồng Nai.

10. Địa chí Đồng Nai, tập III, Lịch Sử, Nxb Tổng hợp Đồng Nai 2001.

Nguồn: http://dongnai.vncgarden.com/van-hoa-dhong-nai/4-dho-gom-tien-so-su-dhong-nai-qua-ket-qua-nghien-cuu-khao-co-hoc

Văn hóa Gò Mun!

Văn hoá Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun- xã Tứ Xã- huyện Lâm Thao- tỉnh Phú Thọ.

Văn hoá Gò Mun có niên đại cách ngày nay 2500-3000 năm, là nền văn hóa hậu kỳ thời đại đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Phân bố ở miền Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng với địa bàn phân bố của văn hoá Đồng Đậuvăn hóa Phùng Nguyên. Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm…thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội. Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích văn hoá Gò Mun như các di chỉ: Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới… phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng….

Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng, các di tích và di vật… đều phản ánh một cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng. Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng văn hoá Gò Mun chỉ như một “bản lề”, một “khâu chuyển tiếp” hay một điểm “giao thời”, “đệm” cho văn hoá Phùng Nguyên – Đông Sơn.

Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun:

Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật vào các năm 1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học đã thu được hàng vạn hiện vật bao gồm: đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau.

Hiện vật đá: qua 4 lần khai quật đã thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh…;

Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu…; hiện vật gốm thời kì này có dọi se sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc…

Hiện vật văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu như:

hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật; được làm từ chất liệu đồng, gốm, đá…Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu. Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học đã tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu… qua đó cho chúng ta biết được người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn. Giai đoạn Gò Mun lần đầu tiên xuất hiện mũi tên được làm bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng.

Thông quá đó cũng cho chúng ta thấy sự khéo léo của cư dân người Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và cũng là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong văn hóa Gò Mun:

Hơn thế nữa ở giai đoạn này còn ghi nhận sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau so với các giai đoạn trước. Đồ đồng trong văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau.  Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác. Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của văn hóa Đông Sơn.

Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như: rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc… và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi.

Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra. Điều đó đã được minh chứng bằng sự có mặt của những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại.

Tượng đồng thuộc Văn hóa Gò Mun

Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt văn hóa Gò Mun và văn hóa Đồng Đậu:

Trong giai đoạn văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng đã bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng được xác định rõ ràng. Chính việc ổn định kiểu dáng đã dẫn đến việc sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu. Song dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt tới trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là về nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn.

Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun: rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa… đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán. Đây là những c«ng côcơ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun thời bấy giờ.

Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nghề trồng lúa nước. Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước.

Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo ra đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng.

Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận sự phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun:

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun đã dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình. Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế.

Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu là văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm. Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ. Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản.

Nếu như gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn  thì đến giai đoạn này, gốm được nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxít silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế mà gốm có độ cứng hơn, có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời kì trước.

Mảnh gốm – Văn hóa Gò Mun

Loại hình gốm trong văn hóa Gò Mun rất phong phú:

Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng như: nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.Qua đó  phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc được họa bức tranh toàn cảnh về sự tụ cư thời đó. Đó là sự quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình,  …, là sự hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính…và sau này trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam.

Như vậy có thể thấy rằng: giai đoạn này xã hội người Việt đã có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt. Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm của mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá. Chính vì có bước tiến bộ trong kĩ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người dân Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt.

Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

Hiện nay tại bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như: rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm… tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kì có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc. Đó cũng chính thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu  cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/hien-vat-dac-sac/401-van-hoa-go-mun

Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa tiếp nối văn hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân- huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, được các cán bộ văn hóa của tỉnh phát hiện năm 1962. Qua 6 lần khai quật đã phát hiện hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, gốm, xương sừng… Nền văn hóa này có niên đại mở đầu vào khoảng thế kỷ XV- XIV trước công nguyên và chấm dứt thế kỷ X-IX trước công nguyên.

Dấu tích Lò – Văn hóa Đồng Đậu

Ở Phú Thọ có một số địa điểm thuộc nền văn hóa này. Đó là: Xóm Rền, Nội Gan- Kinh Kệ, Đồng Đậu con – Tứ Xã- Lâm Thao…Đây là nền văn hóa quan trọng tương ứng với thời đại tiền Hùng Vương ở Việt Nam. Việc phát hiện các di chỉ thuộc nền văn hóa này một lần nữa khẳng định Phú Thọ là một trong những cái nôi của nền văn minh trong lịch sử: văn minh Việt cổ.

Đồ gốm trong văn hóa Đồng Đậu:

Người Đồng Đậu tiếp thu những kỹ thuật, thành tựu của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá và làm gốm thành những sản phẩm bình, bát, nồi vò…nhưng khác biệt là ở chỗ người Đồng Đậu cải tiến trong loại hình đồ gốm miệng loe, bẻ xiên, vát mỏng hay trang trí hoa văn sóng nước bằng dụng cụ nhiều răng được gọi là “bút kẻ khuôn nhạc” trở thành đặc trưng không thể thiếu của văn hóa Đồng Đậu. Hoa văn trên gốm Đồng Đậu chủ yếu trang trí ở cổ hay ở vành mép miệng của đồ gốm.

Miệng bình gốm – văn hóa Đồng Đậu

Một đặc trưng khác của gốm Đồng Đậu khác so với gốm Phùng Nguyên và gốm Gò Mun là gốm Đồng Đậu thường có dấu in đan lóng mốt trong một số loại đồ đựng thuộc loại đáy bằng. Về chất liệu gốm, nếu như gốm Phùng Nguyên có màu đỏ, màu hồng nhạt thì gốm Đồng Đậu có màu xám và có độ nung cao hơn nhưng về cơ bản vẫn mang yếu tố truyền thống là đất sét pha cát và bã thực vật. Trong các di chỉ Đồng Đậu xuất hiện rất phổ biến tượng đất nung: tượng bò, tượng gà, tượng rùa…

Đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu:

Về đồ đá họ cũng biết làm rìu đá, đục đá, mũi lao xương, khuyên tai có mấu, vòng tay bằng đá ngọc nhưng đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu không chau chuốt bằng đá Phùng Nguyên và ở Đồng Đầu đồ đá xuất hiện mũi tên ba cạnh, mặt cắt tam giác hay hạt chuỗi hình “gối quạ”. Qua những lần khai quật tại các di chỉ, các nhà khảo cổ học nhận định rằng công cụ sản xuất đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu có chiều hướng giảm đi và được thay thế bằng đồ đồng.

Truyền thống cư dân vùng Phú Thọ trồng lúa nước có từ thời kỳ Phùng Nguyên thì đến Đồng Đậu một lần nữa lại khẳng định điều này. Nhiều thóc gạo đã được tìm thấy trong nhiều di chỉ và đặc biệt trong di chỉ Đồng Đậu đã tìm thấy dấu vết hạt gạo cháy.

Đồ đồng trong văn hóa Đồng Đậu:

Trong văn hóa Phùng Nguyên khai quật các di chỉ cho thấy xuất hiện nhiều những cục sỉ đồng nhỏ như hạt ngô ở Gò Bông và một số mảnh đồng nhỏ chưa định hình tại Đoan Thượng- …thì đến Đồng Đậu công cụ bằng đồng đạt đến trình độ cao. Một bước phát triển đột biến như là một cuộc cách mạng về luyện kim. Trong nhiều di chỉ phát hiện nồi nấu luyện đồng, lò nung, khuôn đúc các loại đơn hoặc kép. Hàng trăm mảnh khuôn, mảnh nồi nấu đồng, dấu vết của lò nung, nhiều tiêu bản được xem như lõi của khuôn đúc, cùng với các loại công cụ như: rìu xòe cân, giáo, lao, đao, mũi tên hai ngạnh, đũa, búa, lưỡi câu được chế tác hoàn chỉnh.

Đồ đồng – văn hóa Đồng Đậu

Qua 6 lần khai quật tại các di chỉ của Đồng Đậu đã tìm được rất nhiều loại lưỡi câu đồng, điều đó cho thấy cư dân Đồng Đậu là những người đánh cá rất giỏi vì bộ lưỡi câu đồng tìm được với các kỹ thuật phức tạp: từ đúc tạo que, đến gia công rèn nguội, chặt ngạnh, chặt mũi uốn lỗ xỏ dây đã tạo được một sản phẩm hoàn chỉnh như chiếc lưỡi câu ngày nay. Tại một số di chỉ khác của Đồng Đậu tìm được rất nhiều xương răng của các loài cá như: cá quả, cá chép, cá trắm, cá chiên, cá chuối đã chứng tỏ ưu thế về phương thức khai thác thủy sản trong đó có nghề câu cá ở thời kỳ này.

Nông nghiệp Đồng Đậu:

Với một nền nông nghiệp phát triển, kế thừa thành tựu chế tác đá gốm của người Phùng Nguyên cùng với đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đồng đã đánh dấu một bước phát triển của xã hội cư dân Đồng Đậu. Với việc khai thác các di chỉ mộ táng cho ta hiểu biết hơn về tổ chức xã hội cũng như thế giới tinh thần của cư dân Đồng Đậu như khai quật được một mộ táng đơn hay 1 mộ song táng (2 cá thể) dùng đất sét làm nền quan tài.

Dấu tích bếp nấu ăn – Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu được GS Hà Văn Tấn khẳng định:

“Đó là văn hóa của những người luyện kim, chế tác kim loại điêu luyện và lành nghề. Đó là văn hóa của những người thợ gốm tài hoa, tạo tác những khối lượng động vật độc đáo, chế tác được những đồ gốm kích thước lớn, trang trí hoa văn đẹp mang phong cách riêng của thời đại mình đang sống. Và đó cũng là văn hóa của những người biết phát huy, kế thừa những thành quả của cha ông thời Phùng Nguyên để bồi đắp, tạo lập một thế hệ mới phát triển cao hơn, biết chọn điểm nhấn quan trọng, quyết định đến sự tồn vong của cộng đồng là luyện kim và đúc đồng bên cạnh nghề chế tác đá truyền thống….”

Hiện nay tại Bảo tàng Hùng Vương đang trưng bày giới thiệu một số bộ sưu tập hiện vật Đồng Đậu. Cùng với các vấn đề đã được làm sáng tỏ của văn hóa Đồng Đậu, còn rất nhiều câu hỏi mở như: Dấu vết cư trú của cư dân Đồng Đậu, vấn đề cư trú, vấn đề phân chia giai đoạn của nền văn hóa này…đang chờ các bạn tìm hiểu và giải đáp trong tương lai.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/nghien-cuu-suu-tam/400-van-hoa-dong-dau

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Phùng Nguyên

Đỉnh cao của hoa văn gốm Phùng Nguyên chính là những đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải phức tạp, đối xứng sinh động!

Hơn 50 năm qua, công cuộc nghiên cứu về văn hóa Phùng Nguyên đã đạt được những thành tựu xuất sắc. Việc phát hiện và n  ghiên cứu văn hóa Phùng Nguyên không chỉ làm sống dậy một nền văn hóa sơ kỳ thời đại kim khí phát triển rực rỡ suốt nhiều thập kỷ mà còn chứng minh được cội nguồn bản địa của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng. Đặc biệt, công cuộc này do chính các nhà khảo cổ học Việt Nam thực hiện, chứ không phải nhờ từ người Pháp, những người đặt nền móng cho việc nghiên cứu khảo cổ học hiện đại Việt Nam.

Đồ gốm cổ Việt Nam ra đời khoảng 10.000 năm trước, trong văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn (1) và đến giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, kỹ thuật chế tác đồ gốm đã đạt đến đỉnh cao cả về kỹ thuật và nghệ thuật. Phùng Nguyên là tên một nền văn hóa tiền Đông Sơn nổi tiếng, phân bố trên một vùng khá rộng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Tên gọi của nền văn hóa này được lấy từ tên của một di chỉ khảo cổ học: di chỉ Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ, Lâm Thao, Phú Thọ) được phát hiện từ năm 1959 (2).

Các loại hình trong gốm Phùng Nguyên:

Về loại hình, gốm Phùng Nguyên thường có các loại đồ đựng như bình, vò, bát tròn, bát mâm bồng… được tạo bằng bàn xoay nên có độ dày đều cân đối; một số loại hình nặn bằng tay như tượng động vật, chạc gốm, dọi xe chỉ, bi gốm… Hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên đa dạng và phong phú về kiểu loại và các họa tiết trang trí.

Nồi gốm đen Phùng Nguyên

Gốm trong văn hóa Phùng Nguyên, mà không đồ gốm nào có thể sánh được, không chỉ nổi bật ở sự phổ biến rộng rãi, tính thống nhất cao, kỹ thuật chế tác điêu luyện mà còn ở sự phong phú của hoa văn trang trí, thể hiện trình độ tư duy thẩm mỹ cao.

Hoa văn trong gốm Phùng Nguyên:

Cách thức tạo hình hoa văn trang trí có bước chuyển đổi rõ rệt qua ba giai đoạn: ở giai đoạn sớm, lối in lăn kết hợp khắc vạch được sử dụng rộng rãi; sang giai đoạn điển hình, lối khắc vạch in lăn đã dần được thay thế bằng khắc vạch in chấm; đến giai đoạn muộn, lối trang trí hoa văn khuông nhạc và văn thừng to, thô chiếm vị trí chủ đạo. Trình độ điêu luyện của người thợ gốm Phùng Nguyên thể hiện qua các đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải phức tạp.

Hoa văn gốm Phùng Nguyên với đặc thù là kiểu văn khắc vạch kết hợp chấm mịn theo băng dải tạo thành các họa tiết phức tạp nhưng rất chặt chẽ. Những hoa văn này được trang trí thành băng, tạo những họa tiết uốn lượn lặp đi lặp lại, có các dấu đệm nằm trong khung trống. Các họa tiết khắc vạch hình chữ S cong đều đối xứng, nằm ngang chiếm vị trí chủ đạo, kết hợp các họa tiết hình học đối xứng như hình tam giác, hình thoi. Thêm vào đó, hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên còn đa dạng ở các kiểu khắc vạch trên nền thừng, khắc vạch kết hợp hài hòa chấm que theo băng dải, khắc vạch kết hợp in lăn và miết láng…

Những đồ án hoa văn này đã thể hiện trình độ khéo léo của người thợ gốm, chỉ bằng hai bàn tay và những dụng cụ tạo hoa văn thô sơ, như những chiếc que đầu nhọn, đã tạo vạch nên những đồ án phức tạp nhưng không rườm rà, cân đối mà không cứng nhắc.

Hoa văn trên gốm Phùng Nguyên còn thể hiện trình độ tư duy khoa học của người thời bấy giờ.

Không phải tự nhiên mà người thợ gốm có thể hiểu được sự cân đối, quy luật đối xứng… mà có thể, do họ đã quan sát kỹ những điều có sẵn trong tự nhiên, trong con người, trong cuộc sống hàng ngày mà nảy sinh những ý tưởng về đối xứng để vận dụng vào thao tác tạo hoa văn trên đồ gốm.

Trình độ tư duy của người thợ gốm còn thể hiện trong việc xếp hoa văn thành các băng dải và sự tiếp nối cùng một họa tiết quanh đồ gốm. Sự quay tròn của một họa tiết hoa văn theo vành tròn trên đồ gốm, đặc biệt trên loại bát đĩa mâm bồng, dường là sự phản ánh nhận thức của con người về những chu kỳ mà họ quan sát được trong cuộc sống hàng ngày, như bốn mùa xuân hạ thu đông luân chuyển trong một năm, sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa thời tiết khi nóng khi lạnh, quan sát sự tròn khuyết của tuần trăng, sự gieo trồng thu hoạch của mùa màng theo thời vụ, sự đâm chồi, sinh trưởng, đơm hoa kết quả của cây trái… (3).

Trên hoa văn gốm Phùng Nguyên, các họa tiết khắc vạch hình chữ S cũng chiếm vị trí chủ đạo.

Theo thống kê của GS. Hà Văn Tấn, có trên 30 kiểu môtip hoa văn hình chữ S (4). Chữ S thường được khắc nét đôi thành một hay hai hàng ngang ở giữa những đường chỉ chìm, tạo thành một băng hoa văn. Những băng hoa văn này không đứng đơn độc mà thường có các vành văn chấm dải, vành văn hình giun, vành vòng tròn cuống rạ, vành các đoạn thẳng song song,… tạo thành những đồ án sinh động, lấy chữ S làm trung tâm, làm họa tiết chính.

Chiếm số lượng lớn hơn cả là những hình chữ S đứng riêng lẻ thành hàng đều đặn, lúc một hàng một, lúc hai hàng song song trong các băng và được bao quanh bởi các đường chỉ chìm và các đoạn thẳng đứng. Hoa văn kiểu này trang trí phổ biến trên bát mâm bồng và trên bình dạng thố. Trên loại hình bát mâm bồng thường được trang trí các họa tiết hoa văn đẹp mắt và cầu kỳ, chứng tỏ người thợ gốm đã để nhiều tâm huyết và công sức vào đây.

Những họa tiết chữ S nằm ngang ít hơn và chúng thường được khắc vạch nối liền chữ nọ với chữ kia tạo thành một băng hoa văn hình chữ S tương đối hẹp, chạy dài trang trí vòng quanh phần vai của một loại nồi miệng loe, đáy tròn. Nhìn trực diện, vành hoa văn trang trí này thể hiện như một vòng tròn đồng tâm, nên độ doãng của những chữ S này thường rất lớn, có khi chữ S doãng đến độ gần như chạy thành hàng ngang trên đồ đựng.

Có thể nói, đỉnh cao của hoa văn gốm Phùng Nguyên chính là những đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải phức tạp, đối xứng sinh động.

Số lượng hoa văn trang trí đối xứng trên đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên tương đối lớn. Phổ biến nhất là các họa tiết những hình tam giác ngược chiều nhau trang trí thành băng vòng quanh cổ đồ gốm. Trong các hình tam giác, thường có khắc những đường cong, đoạn thẳng, tạo thành những đồ án đối xứng qua đường cao của hình tam giác, tạo nên những hình tam giác hoặc đóng kín, hoặc để hở. Viền quanh hình tam giác là những hàng chấm dải đều đặn, phần còn lại được miết nhẵn. Phía trên và dưới có những đường chỉ chìm song song, đều đặn nhau làm nền cho đồ án hình tam giác.

Đối xứng gương:

Các họa tiết trang trí bên trong hình tam giác dù đơn giản hay phức tạp cũng đều theo nguyên tắc đối xứng qua đường cao của hình tam giác. Những đối xứng kiểu này được gọi là đối xứng gương: “Đối xứng gương là một kiểu đối xứng khá phổ biến. Các nhà sinh học còn gọi kiểu đối xứng này là đối xứng lưỡng trắc. Ta có thể thấy hình ảnh của đối xứng gương – gọi như vậy vì giống như ta với bóng ta ở trong gương – ở khắp quanh ta và cả ở bản thân ta. Người xưa cũng vậy, họ tìm thấy kiểu đối xứng này ở chiếc lá, ở vết chân thú, ở đôi cánh cò trải rộng trên trời cao…” (5).

Cụ thể hơn, đối xứng gương là “ta có thể dùng một mặt phẳng cắt các hình đối xứng kiểu này thành hai nửa bằng nhau và từng cặp điểm đối xứng đều cách đều mặt phẳng đó. Khi gập lại, hai nửa có thể trùng khít lên nhau” (6). Người thợ gốm Phùng Nguyên, khi tạo hoa văn, cũng tuân thủ một cách chặt chẽ quy tắc đối xứng này; từ những hình đối xứng rất đơn giản như những hoa văn khắc vạch hình chiếc lá đến những hình đối xứng phức tạp như những hình tam giác đối xứng.

Đối xứng trục quay trong gốm Phùng Nguyên:

Nguyên tắc đối xứng tiếp theo là đối xứng trục hay đối xứng quay: “Hình có đối xứng trục có những bộ phận bằng nhau và giống nhau nhưng không thể chồng khít lên nhau bằng cách gập qua một đường thẳng như trong đối xứng gương mà những bộ phận bằng và giống nhau đó chỉ có thể chồng lên nhau khi ta quay một trục thẳng góc với mặt phẳng chứa hình đó” (7).

Hoa văn kiểu chữ S nằm ngang theo hàng là một đồ án tiêu biểu của đối xứng trục. Những đường khắc vạch hình chữ S nối tiếp nhau chạy ngang quanh hiện vật. Kiểu hoa văn này thường trang trí trên cổ bình hoặc nồi đựng có kích thước lớn. Hầu hết các họa tiết hoa văn khắc vạch kiểu chữ S với những biến thể của chúng đều có tính chất đối xứng trục.

Nồi gốm Phùng Nguyên

Bên cạnh đó, người thợ gốm Phùng Nguyên còn tạo nên những đồ án gồm hai họa tiết là hai hình kín, bản thân mỗi hình không có sự đối xứng nhưng lại được đặt ở vị trí có đối xứng trục quay với nhau. Đó là đồ án hoa văn khắc vạch mà hình “bào thai” là một dẫn chứng (8). Đồ án hoa văn này gồm hai hình khắc vạch phần lưng cong, phần bụng nhìn trông giống như một em bé đang nằm trong bụng mẹ. Nếu nhìn hình đơn thì không có nét đối xứng nhưng đặt hai hình ngược chiều nhau thì đồ án này gồm hai hình đóng kín đồng dạng và được đặt theo nguyên tắc đối xứng trục.

Đối xứng tịnh tiến trong gốm Phùng Nguyên:

Nguyên tắc đối xứng cuối cùng là đối xứng tịnh tiến. “Đối xứng tịnh tiến là các dải hoa văn gồm các họa tiết không có đối xứng gương mà cũng không có đối xứng trục. Lấy riêng ra từng họa tiết, người ta có thể coi đó là những hình không đối xứng. Nhưng chúng được lặp lại trên một dải và chúng có thể chồng lên nhau bằng cách trượt theo một hướng” (9).

Thố gốm Phùng Nguyên

Những họa tiết hoa văn khắc vạch hình chữ S trong có chấm dải được liên kết thành một kiểu trang trí liên hoàn trên đồ đựng. Người thợ gốm đã khắc vạch một loạt chữ S móc nối liền nhau chạy vòng quanh đồ đựng. Những hoa văn này đã được người thợ gốm tạo nên những hình đóng kín không có đối xứng trục hay đối xứng gương và cho chúng lặp lại, tạo thành nhịp điệu của dải hoa văn. Các dải hoa văn này được liên kết với nhau theo nguyên tắc tịnh tiến.

Trên các môtip hoa văn chính, để lấp kín những khoảng trống, người thợ gốm đã tạo nên các họa tiết đệm, đó là những hình tam giác, hình thoi, hình bán nguyệt, đôi cánh chim đang sải bay… làm cho các môtip chính không bị rỗng mà cũng không rườm rà, rối mắt.

Bột màu trong gốm Phùng Nguyên:

Nét đặc biệt nữa là người thợ gốm Phùng Nguyên còn dùng một chất bột trắng để khảm vào các rãnh hoa văn khắc vạch của một số loại gốm mịn và rất mịn, được tìm thấy ở các di chỉ Gò Bông, Xóm Rền… (Phú Thọ). Cư dân Phùng Nguyên là những người đầu tiên thử nghiệm dùng chất bột trắng để trang trí hoa văn và làm áo gốm ở Việt Nam. Kết quả phân tích mới đây do các nhà khoa học Nhật Bản tiến hành đã cho thấy, chất bột trắng này là một hợp chất nhân tạo. Đây thực sự là một tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và vẻ đẹp của gốm văn hóa Phùng Nguyên (9).

Trên đây là những nét đặc trưng cơ bản của đồ gốm trong giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên. Hoa văn trên gốm Phùng Nguyên, được tạo ra bởi bàn tay khéo léo cùng tư duy logic của người thợ gốm, đã có những nét độc đáo, riêng biệt mà những người thợ gốm ở các giai đoạn văn hóa sau đó hầu như không thể vượt qua.

Bên cạnh số lượng đồ sộ của hiện vật, sự phong phú và đa dạng về loại hình và hoa văn trang trí trên đồ gốm đã chứng minh được sự phát triển cao của trình độ kỹ thuật và đặc biệt là tư duy thẩm mỹ của người thợ gốm giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Phùng Nguyên mãi mãi là đỉnh cao trong kỹ thuật và thủ pháp trang trí hoa văn trên đồ gốm thời tiền – sơ sử Việt Nam.

_______________

  1. Nguyễn Kim Dung, Hai hệ thống gốm sớm trong thời đại đá ở Việt Nam, tạp chí Khảo cổ học số 1 – 1983, tr.22-35.
  2. Hán Văn Khẩn, Văn hóa Phùng Nguyên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
  3. Bùi Thị Thu Phương, Hoa văn và kỹ thuật tạo hoa văn đồ gốm di chỉ Xóm Rền (Phú Thọ), Luận văn Thạc sĩ Khảo cổ học, Tư liệu Viện Khảo cổ học, 2005.

4, 5, 6, 7, 9. Hà Văn Tấn, Người Phùng Nguyên và đối xứng, tạp chí Khảo cổ học, số 3, 4 – 1969, tr.16-27.

8. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Ngọc Bích, Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 325, tháng 7-2011

Tác giả : Bùi Thị Thu Phương
http://vhnt.org.vn/tin-tuc/my-thuat-kien-truc/28307/hoa-van-trang-tri-tren-do-gom-phung-nguyen