Archives

Tìm hiểu về gốm minh văn triều Mạc qua sưu tập chân đèn ở BTLSQG

Triều Mạc là một triều đại để lại nhiều dấu ấn về phát triển kinh tế, văn hóa… Sự phát triển này được thể hiện trên nhiều phương diện, trong đó nổi bật là nghề làm gốm với loại hình đồ gốm có minh văn rất độc đáo. Minh văn trên đồ gốm là một nguồn tư liệu quý, cung cấp cho chúng ta thông tin về họ tên, quê quán của người thợ sản xuất; họ tên của những người đã đặt hàng, từ những tầng lớp trên như công chúa, phò mã tới tầng lớp bình dân.

Gốm có minh văn hầu hết là đồ thờ cúng như: chân đèn, lư hương, tượng thờ. Những minh văn trên gốm thờ còn khắc tên các ngôi chùa, quán và đề tài trang trí chủ yếu là rồng, phượng, lá đề, hoa sen, cánh sen…. Điều này được minh chứng rất rõ qua sưu tập chân đèn gốm có minh văn trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tiếp nối sự phát triển gốm thời kỳ trước đó, đến triều Mạc thì nghệ nhân gốm hội tụ đầy đủ yếu tố cho sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo, để làm ra những chân đèn gốm kiểu dáng mới, nghệ thuật và kỹ thuật trang trí theo lối riêng, mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế với những loại hình mang tính mỹ thuật cao. Đây là loại hình gốm mỹ thuật đặc sắc về tạo hình, để lại nhiều tên tuổi nghệ nhân giỏi như: Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương); gia đình Đỗ Phủ ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm; Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương …

Chân đèn gốm triều Mạc khá phong phú về kiểu dáng, màu men (chủ yếu gốm hoa lam, lam xám) được nghệ nhân tạo tác với hầu hết các kỹ thuật như chuốt, tạo dáng trên bàn xoay. Sản phẩm được thực hiện trên nhiều công đoạn khác nhau, phức tạp và tỉ mỉ. Các bộ phận của chân đèn được chia thành nhiều phần khác nhau, lắp ghép lại, sau đó được gia công thêm bằng cách nặn, đúc, đắp nổi, vẽ các dạng hoa văn, hình tượng. Và đặc biệt, trên loại sản phẩm gốm này còn được thể hiện rất nhiều minh văn, đem lại cho chúng một giá trị lịch sử cũng như giá trị về phong cách tạo hình một cách chính xác.

Để thể hiện các bài minh trên gốm, các nghệ nhân xưa thường dùng lối khắc chữ, viết bằng men lam dưới men trắng, in đắp nổi chữ hoặc kết hợp giữa các phương pháp này với nhau. Nếu là khắc hoặc đắp nổi thì thường là khắc chữ sau khi đã phủ men, đôi khi cũng có trường hợp khắc chữ dưới men (có nghĩa là chữ được khắc trên xương gốm sau đó phủ men). Kiểu chữ dù viết, khắc hay đắp nổi đều dùng lối chữ chân phương. Đối với chân đèn, minh văn thường được thể hiện trước đầu rồng ở thân trên thuộc phần dưới các chân đèn và kéo dài dọc các cánh sen đứng ở thân dưới. Còn với lư hương, minh văn thường được khắc ở các dải quai, quanh miệng hoặc chân đế, khắc xung quanh cổ hoặc khắc quanh đế.

Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử quốc gia trưng bày chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành năm thứ 3 (1580). Chân đèn gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và 2 đoạn dưới hình cái loa cách nhau bằng đường gờ nổi để mộc; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi để mộc 2 cặp phượng múa ở phần trên; băng lá đề kép ở vai và hình rồng vờn ngọc ở thân, kết hợp vẽ lam hoa và mây trong băng cánh sen dưới miệng, mây quanh rồng phượng; cánh sen dài trong có dải xoắn ốc, băng hoa cúc dây trên đế. Men phủ màu trắng ngà.

Chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Diên Thành 3 (1580)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 24, tháng 6, niên hiệu Diên Thành 3 (1580) và do nghệ nhân Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu, ở xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng chế tạo. Minh văn còn cho biết Đại sĩ Ngạn Quận công Mạc Ngọc Liễn, vợ là trưởng công chúa Phúc Thành cùng với 74 sãi vãi thuộc 2 xã Lưu Xá và Đặng Xá, đặt làm chân đèn đẻ cung tiến vào quán Linh Tiên (xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ).

Bên cạnh đó, chân đèn gốm hoa lam, triều Mạc, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) gồm 2 phần: phần trên 3 đoạn gồm miệng hình trụ và đoạn 2 và 3 hình loa, cách nhau bằng đường gờ nổi tô nâu; phần dưới gồm vai và thân trên phình, thân dưới eo, chân đế choãi. Chân đèn trang trí nổi 2 mặt hổ phù ở phần trên; trang trí vẽ lam, xung quanh đoạn miệng chia dọc nhiều dải chữ nhật, vẽ hoa. Đoạn 2 và 3 vẽ 2 cặp phượng múa. Phần dưới, vai vẽ băng lá đề bên trong vẽ nửa bông hoa. Thân trên vẽ rồng mây, thân dưới vẽ cánh sen đứng, trong vẽ các dải xoắn đôi. Chân đế vẽ băng chữ V lồng, lá đề và dây lá hình sin. Men vẽ phủ màu xanh đen, men phủ màu trắng xám.


Chân đèn gốm lam xám, triều Mạc, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588)

Dọc theo thân đèn có khắc các dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào ngày 1 tháng 4, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) và do nghệ nhân Đỗ Xuân Vi ở xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An chế tạo. Minh văn còn cho biết các sãi vãi ở xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng công tạo bình hoa cúng dưỡng chùa Quan Âm (xã Thanh Lãng, huyện Văn Giang, phủ Thuận An hưng) làm vật Tam bảo.

Đặc biệt, chân đèn gốm men lam xám và nâu, thời Mạc, tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4 (1588) là hiện vật độc đáo. Chân đèn gồm 2 phần, phần trên tạo dáng một bông hoa sen nở, trang trí rồng đuổi, rồng uốn. Phần dưới có vai và thân phình chạm nổi băng cánh sen bên trong có bông hoa. Thân trên chạm nổi 4 rồng “yên ngựa” trong khung viền hình nhĩ bôi. Thân dưới chạm nổi băng cánh sen đứng bên trong có hình rồng nổi. Chân đế chạm nổi răng cưa, vạch đứng song song, cánh hoa bên trong có bông hoa. Men phủ màu lam xám, tô men nâu trên 2 tai rồng và dải quai.

Minh văn trên chân đèn cho biết niên đại tuyệt đối cũng như họ tên nghệ nhân chế tạo ra nó. Dọc theo thân trên có khắc 2 dòng minh văn chữ Hán có nghĩa: chân đèn được làm vào tháng 4, niên hiệu Đoan Thái 4, đời vua Mạc Mậu Hợp (1588) và do nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) chế tạo.

Các nhà nghiên cứu đánh giá, trong các loại hình đồ gốm có minh văn ở triều Mạc thì đèn gốm chiếm số lượng nhiều nhất. Những người thợ gốm đua tài bằng cách làm ra nhiều cây đèn chân cao, kích thước lớn, trang trí phức tạp. Nhìn hình dáng bề ngoài thì chân đèn gốm giống như những chiếc bình cắm hoa nhưng thực tế lại dùng để đặt đĩa đèn dầu lạc hay đĩa hoa trên miệng bình phục vụ cho cúng lễ. Chân đèn gốm thời Mạc đẹp hơn các thời khác, nó trở thành thước chuẩn để đánh giá phần nào phong cách của mỹ thuật thời Mạc.

Qua so sánh nhiều tác phẩm đồ gốm, Đặng Huyền Thông được các nhà nghiên cứu đánh giá là nghệ nhân gốm xuất sắc triều Mạc, tiêu biểu cho đỉnh cao của nghệ thuật gốm thời Mạc. Tạo hình tác phẩm của ông mang phong cách rất riêng: trang trí hoa văn trên các tác phẩm gồm nhiều đề tài như hoa sen, hoa cúc, hoa dây, hình rồng, hình học… với rất nhiều bố cục khác nhau. Đề tài tứ linh không được sử dụng trong trang trí mà chỉ có hình rồng, với 15 kiểu rồng nổi khác nhau (rồng nổi kiểu “yên ngựa”, rồng uốn trong cánh sen, rồng uốn trong hình lá đề, rồng uốn trong hình tròn, rồng đuổi…). Các hoa văn hình học như băng răng cưa, vạch thẳng song song… được coi là nối tiếp phong cách truyền thống văn hóa Đông Sơn…

Bên cạnh đó, trên đồ gốm do ông chế tạo, minh văn còn cho biết tên thật của ông là Đặng Mậu Nghiệp tự là Huyền Thông. Ông là sinh đồ, người đã thi đỗ tam trường, làm thợ gốm, quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Những thông tin về tác giả Đặng Huyền Thông không chỉ thấy trên đồ gốm mà còn trên minh văn bia chùa An Định (Hải Dương) quê hương ông. Nội dung văn bia cho biết: Chùa An Định xưa đã bị mai một. Trong xã có Đặng Mậu Nghiệp tên chữ là Đặng Huyền Thông, cùng vợ là Từ Am Nguyễn Thị Đỉnh kết hợp với nhiều vương công và đông đảo người hảo tâm trong xã huyện đứng ra hưng công dựng chùa, tạc tượng. Bia lập vào niên hiệu Đoan Thái 3 (1587). Người soạn văn bia này chính là Đặng Huyền Thông.

Như vậy, qua sưu tập gốm minh văn triều Mạc thế kỷ 16 cho thấy dòng gốm mang nét riêng độc đáo góp phần làm phong phú kho tàng gốm cổ Việt Nam. Hơn nữa, các thông tin trên minh văn đồ gốm góp phần minh chứng thời kỳ phục hưng Phật giáo ở Việt Nam trong thế kỷ 16.

Nguồn: BTLSQG

Gốm Thổ Hà và sản phẩm lư hương đặc trưng

Thổ Hà là làng gốm thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Theo một số tài liệu lịch sử, nơi đây đã từng là một trong 3 trung tâm gốm cổ xưa của người Việt. Làng Thổ Hà, là một làng cổ điển hình ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm trên bờ sông Cầu, có đường giao thông rất thuận tiện. Có lẽ, chính sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân nơi đây xây dựng nên một quần thể kiến trúc đình, chùa, văn chỉ, cổng làng bề thế, uy nghi.

Gốm Thổ Hà có nét riêng đặc biệt, đó là loại gốm không có men, nung ở nhiệt độ cao tạo ra sành với nhiều sắc độ màu đen, màu nâu, màu cánh gián hay màu đỏ gạch. Đây cũng là dòng gốm dân gian truyền thống không tham gia xuất khẩu mà chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước, tương tự như gốm Phù Lãng. 

Dưới đây là hai chiếc lư hương được sản xuất vào thế kỷ 17 – 18 mang màu sắc và phong cách đặc trưng của gốm Thổ Hà với những đường nét hoa văn được chạm, đắp nổi khá tỉ mỉ, chi tiết.

 

Lư tạo dáng hình trụ đứng, viền miệng hình chữ nhật. Mặt trước viền miệng và thân đắp nổi đề tài lưỡng long chầu nhật có vân mây bay quanh. Ở giữa khắc nổi hình long mã ngoảnh mặt lại phía sau, phía dưới chạm thủng đề tài hoa, lá sen. Mặt sau trang trí chữ thọ theo thể chữ triện đặt trong khung hình chữ nhật. Lư gồm 06 chân tạo độ vững chắc, 02 cạnh trang trí hoa văn gấp khúc, lư có màu đỏ gạch.

Kích thước: Đường kính miệng: 19,7 x 15,2 cm; chiều cao: 51 cm; đáy: 24 cm. 

 

Lư tạo dáng hình trụ đứng, mặt trước đắp nổi đề tài lưỡng long chầu nhật và hình ảnh tứ linh. Mặt sau khắc nổi chữ thọ theo thể chữ triện đặt trong khung hình vuông. Lư gồm 06 chân, 02 cạnh đế trang trí hoa văn gấp khúc.

Đường kính miệng: 24 x 13,3 cm; chiều cao: 43 cm; đáy: 21 cm

 

 

Về nền kinh tế thời Đinh – Tiền Lê

1. Nông nghiệp

Nhà Đinh đã thực hiện chính sách phong ấp hay phong hộ nông dân cho các tướng lĩnh có công và phong ấp cho các hoàng tử cũng như giao cho họ cai quản địa phương có ấp của mình. Ruộng đất nói chung vẫn thuộc quyền sở hữu của làng xã. Nhà nước quan tâm và khuyến khích nông nghiệp phát triển.

2. Thủ công nghiệp

Tiếp nối quá trình phát triển của thủ công nghiệp thời Bắc thuộc, các ngành nghề thủ công thời Đinh – Tiền Lê cũng ngày càng mở rộng hoạt động. Theo phương thức thời Đường, nhà nước Đinh – Tiền Lê xây dựng một số quan xưởng chuyên sản xuất thủ công cần thiết cho mình. Hình thành những xưởng đúc tiền, rèn vũ khí, may mũ áo, xây dựng cung điện, nhà cửa, chùa chiền.

Trong nhân dân, các nghề thủ công cổ truyền như kéo tơ, dệt lụa, làm đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng, làm giấy đều phát triển. Nghề đóng thuyền, làm đồ vàng, bạc xuất hiện ở nhiều nơi, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao.

3. Ngoại thương

Trao đổi buôn bán giữa các miền khá thường xuyên, chợ búa mọc lên ở nhiều nơi. Hoa Lư, Long Biên, Đại La, Luy Lâu trở thành những trung tâm buôn bán thời kỳ này. Để góp phần vào phát triển thương nghiệp và cũng là để khẳng định ý thức làm chủ đất nước của mình, từ đầu thời Đinh nhà nước đã cho đúc tiền “Thái Bình”. Đến năm 984, vua Lê lại cho đúc tiền “Thiên Phúc”. Thời kỳ này nước ta có sự giao thương với nhà Tống – Trung Quốc.

Nhìn chung, sự phát triển kinh tế dưới thời Đinh – Tiền Lê khá đều đặn và đa dạng. Nó đã tạo điều kiện nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố nhà nước trung ương tập quyền vừa nâng cao sức chiến đấu của nhà nước thời Đinh – Tiền Lê.

Những loại cổ vật Việt Nam là duy nhất trên thế giới

Jean Francois Hubert, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, cổ vật Việt Nam, mỹ thuật Việt Nam, văn hóa Chămpa… đã dành cho TTCT một cuộc trao đổi về cổ vật Việt Nam.

Mở đầu cuộc phỏng vấn về Việt Nam, ông Hubert cho biết: “Tôi vô cùng ấn tượng về đồ gốm Việt Nam. Những chiếc ấm, thạp thời Lý – Trần hay bình vôi, chum, hũ thời Lê… cả hình dạng, phong cách, họa tiết trang trí thì không lẫn vào đâu được. Tôi thường nói đùa những đồ vật này là 300%, thậm chí 500% là cổ vật Việt Nam, với nhiều đặc trưng mà đồ gốm các nước khác, kể cả Trung Quốc không hề có. Những dấu hiệu trên những cổ vật ấy mang dấu ấn của hội họa trừu tượng. Cách đây 10 thế kỷ mà người Việt đã nghĩ ra những họa tiết như vậy thì rất ngạc nhiên. Đối với tôi, những đồ gốm thời Lý – Trần là tuyệt tác. Văn hóa Đông Sơn độc đáo và duy nhất trên thế giới, xứng đáng để chúng ta tiếp tục đào sâu nghiên cứu nhiều hơn nữa. Trong khi đó, người Trung Quốc khi viết về văn hóa Đông Sơn thì thường xem nền văn hóa này như một bộ phận của văn hóa Quảng Tây. Phía Trung Quốc, vẫn có những cuộc triển lãm về đồ Đông Sơn của Việt Nam và ghi chú giải thích bên dưới đó là thuộc văn hóa Trung Quốc. Theo tôi, nền văn hóa này là của Việt Nam 100%”…

* Thưa ông, cổ vật ở Việt Nam hiện đang thật giả lẫn lộn, không chỉ đồ giả mà còn làm giả trên chính đồ thật. Là một chuyên gia, ông làm thế nào để phát hiện sự thật – giả này? Có cách nào để phòng tránh?

Ở Việt Nam, một số thợ gốm ở Bát Tràng, thợ điêu khắc đá ở Đà Nẵng hay thợ đúc đồng ở Thanh Hóa… làm đồ giả cổ rất giỏi. Họ phỏng theo đồ thật và làm đồ giả giống như thật. Có trường hợp ở Thanh Hóa, người ta làm đồ giả cổ, phết thêm một lớp “ten” đồng của đồ thật ở bên ngoài rồi hô hoán đào được trong lòng đất, rồi có người đứng ra làm chứng hẳn hoi… Thật ra ở Quảng Tây (Trung Quốc) cũng có chuyện làm giả như vậy chứ không riêng gì ở Việt Nam.

Muốn phân biệt thật – giả trước tiên phải xem xét dấu vết thời gian đọng lại trên hiện vật. Công việc này chúng tôi làm hằng ngày và trong nhiều năm nên đã đúc rút thành kinh nghiệm để nhận diện. Muốn giám định đúng hiện vật phải thường xuyên tiếp cận, cọ xát từ ngày này sang ngày nọ, rất cần mẫn, công phu và mất nhiều thời gian. Với nghề này, càng tiếp cận nhiều với hiện vật càng dễ đi đúng hướng.

Thật ra trên thế giới chỉ có khoảng năm hay sáu người thật chuyên, thật giỏi, có thể hiểu được tường tận một số đồ vật. Nhưng trên thế giới cũng có những kẻ lừa đảo rất giỏi, có thể tồn tại trong nghề giả cổ này đến 20 năm.

Tôi học được rất nhiều từ những nhà sưu tập Việt Nam. Họ khá lạ, có người trong 20 năm ròng chỉ mân mê đồ vật mà tích lũy kinh nghiệm chứ không học từ sách vở hay trường lớp nào như các nhà giám định ở phương Tây. Lâu ngày tự nhiên có kiến thức, phân biệt rất già dặn. Họ kinh nghiệm đồ đồng Đông Sơn thật sẽ rất nhẹ. Còn tượng Chămpa thật nếu búng vào thì có tiếng “lanh canh, long cong”. Chỉ cần nhấc một tượng Phật gỗ Phù Nam lên, người giỏi biết ngay thật – giả.

Đừng nghĩ rằng chỉ ở Việt Nam mới có nhiều đồ giả mà ngược lại phương Tây còn nhiều hơn. Thực trạng cổ vật ở Việt Nam cho thấy đó là một gia tài đồ sộ, và nghiên cứu của chúng ta về gia tài này thì chưa tới đâu.

* Ông có lời khuyên nào đối với người chơi cổ vật Việt Nam?

Nếu lao vào cuộc chơi này trước tiên nên tin tưởng ở mình và tự học, nên trực tiếp, thường xuyên tiếp xúc với hiện vật. Nên đến các phòng triển lãm hoặc viện bảo tàng để xem và sau đó là tìm sách để đọc. Ở Việt Nam có nhiều cuốn sách viết về cổ vật rất tốt, nhiều công trình biên khảo về đồ gốm rất có giá trị.

Người chơi cũng nên chọn thái độ lương thiện, liêm sỉ trong cuộc chơi, vừa nhũn nhặn để học tập, nuôi cho mình sự đam mê mới đi được xa. Theo tôi, phải mất ít nhất 15 năm mới biết mình có trụ vững trong nghề hay không. Tất nhiên, khi đạt đến trình độ bình phẩm về cổ vật mới được coi là người có nghề. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu sâu trong một thời gian dài.

Ngày xưa Henri Parmentier khởi đầu bằng việc khai quật ở Mỹ Sơn. Xem lại những cuộc khai quật tương tự, so với thế giới thì đúng là nước Pháp đi trước các nước khác cả 30 năm nhưng sau đó thì chững lại. Những viện bảo tàng Pháp sau những bước đi đầu rất đẹp, chỉ ôm khư khư những hiện vật cổ, cho đến nay chậm hơn không dưới 30 năm so với nhiều bảo tàng trên thế giới.

Từng có những sự kiện chấn động ở Pháp khi một chuyên gia về Chămpa công bố những khám phá mới và được giới nghiên cứu lắng nghe. Nhưng sau đó mới lòi ra đó là những món đồ sao chép khiến người ta rất hoang mang. Vì thế, nếu chỉ nghiên cứu lý thuyết trong một thời gian dài mà không sờ đến hiện vật sẽ không phân biệt được thật – giả và sẽ có nhiều lỗ hổng trong giám định…

* Người Việt Nam đang có xu hướng giảm chơi đồ gốm Trung Quốc mà chuyển sang chơi đồ gốm Việt Nam. Ông đánh giá điều này như thế nào?

Trước tiên phải thừa nhận đồ gốm Trung Quốc số lượng rất lớn và có lẽ mang một “thiên chức vương giả”. Đồ càng đẹp, càng uy nghi thì người Trung Quốc càng trọng. Trong khi đó người Việt Nam và Nhật Bản khi xem xét hiện vật thường có khuynh hướng nhân văn hơn, thường đặt trong một bối cảnh có nhiều mối tương quan với đất đai. Gặp những món đồ có vết rạn, người Trung Quốc thường vứt bỏ.

Người Việt Nam và Nhật Bản thì giữ lại. Họ thấy trong đó có hình ảnh, tiếng nói của đất. Tôi cảm thấy người Pháp chúng tôi cũng có tương quan về đất đai như thế nhưng ở tầm mức ít sâu sắc hơn. Điều này không hiểu sao ở người Việt lại mãnh liệt đến mức kỳ lạ. Theo tôi, trong 30 năm tới đây xu hướng này sẽ rõ nét hơn, và giới sưu tầm trên thế giới sẽ nghiêng hẳn về xu hướng này.

* Ở Việt Nam mới chỉ có các cuộc đấu giá cổ vật nghiệp dư và tự phát. Theo ông, vì sao Việt Nam chưa có sàn đấu giá cổ vật? Phải chăng do luật pháp không đầy đủ, do người Việt không có kinh nghiệm hay do sức hút của thị trường kém?

Không riêng gì Việt Nam mà nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Philippines… cũng không có sàn đấu giá. Đấu giá cổ vật là một sự bảo đảm tính thật – giả rất tốt cho hiện vật. Nhưng chính vì tính phức tạp và cơ chế đấu giá cổ vật ở Việt Nam chưa rõ ràng cho nên người ta chưa tổ chức được. Trong cuộc bán đấu giá không thể phỉnh gạt, làm mờ mắt ai được. Đem một cái thố ra bán phải kèm theo bảo hiểm, rồi phê bình, miêu tả rất đầy đủ, từ xuất xứ, niên đại, tính chất, đặc điểm, rồi định giá…

Điều tôi thích ở các cuộc đấu giá là mọi chuyện xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, từ kẻ bán người mua cho đến giá cả, sự thật – giả… Chính vì vậy mà cuộc đấu giá có nhiều thủ tục phức tạp khiến nó chưa thể thực hiện ở Việt Nam. Các hãng đấu giá lớn trên thế giới cũng từng gặp những phiền toái như thế.

Có trường hợp khách hàng đưa 10 hiện vật đến hai hãng Christie’s và Sotheby’s để đấu giá. Qua thẩm tra, khảo cứu, các hãng đấu giá chỉ chọn được hai món để đưa ra đấu giá và cất đi tám món. Sau đó, hãng đấu giá trả lời rất khéo rằng họ chỉ bán được hai món. Vì thế, đôi khi những người có cổ vật bị từ chối thì sinh lòng trách giận hãng đấu giá.

* Dự đoán của ông về thị trường đấu giá cổ vật của Việt Nam?

Tôi chưa nhìn ra được thị trường này, kể cả trong nhiều năm nữa. Hai hãng đấu giá lớn là Christie’s và Sotheby’s đã suy nghĩ về việc này hơn 10 năm nay nhưng chỉ mới khởi đầu trong một vài năm gần đây. Muốn làm được điều này sẽ phải vượt qua nhiều quy định rất phiền phức của chính quyền sở tại. Rồi hiện tượng dối trá, lọc lừa.

Người ta ít khi nghĩ đến những khoản lợi nhuận vô cùng lớn mang lại cho quốc gia nếu làm được điều này mà cứ nghĩ đây là trò tiêu khiển của một nhóm người, do đó chưa đặt sự việc đúng tầm mức.

Việt Nam các bạn tương tự Pháp và Ý, là những xứ sở có nền văn hóa rất cao. Những giá trị của nền văn hóa như thế này là độc nhất vô nhị. Nhiều khi tôi cũng tự hỏi không biết người Việt Nam có nhận ra được điều đó không. Tôi nghĩ người Việt Nam bây giờ phải nghĩ cách tái chinh phục văn hóa của nước mình. Có thể nói văn hóa Việt Nam như khoáng sản, chẳng khác dầu mỏ mà chưa ai biết cách khai thác để làm giàu.

* Theo ông, vị trí và giá trị của cổ vật Việt Nam đang ở đâu trên thế giới?

Trên thị trường thế giới, cổ vật Việt Nam không được quan tâm như hội họa, vốn có vị trí cao và đang tiếp tục vươn lên. Cổ vật Việt Nam, những đồ Đông Sơn có tiếng tăm cũng chưa nhiều, đó là chưa kể những cổ vật đích thị của Việt Nam nhưng lại bị Trung Quốc nhìn nhận của họ. Từ những năm 1995 – 1996 tôi có tổ chức một số triển lãm và đấu giá cổ vật Việt Nam, nhưng giá cả nhìn chung không cao lắm. Trong khi đó, vị trí và giá cả của hội họa Việt Nam đã tăng lên cao trong tổng thể hội họa châu Á.

Nguồn: Cuộc phỏng vấn do THÁI LỘC – TRẦN ÐỨC ANH SƠN thực hiện

Tg: Chắc chắn nội dụng cuộc phỏng vấn sẽ gợi cho các chuyên gia, những người chơi và yêu thích cổ vật Việt Nam nhiều suy ngẫm…

Tạo hình, hoa văn trang trí trên trống đồng Đông Sơn (bản đầy đủ nhất)

Trống tạo dánh hình trụ đứng, tang phình, thân thon, đế choãi. Trống có 2 gờ khuôn đúc chạy thẳng từ tang xuống váy trống, có 04 bộ quai cong hình cánh cung, xẻ rãnh chính giữa trang trí hoa văn hình chấm dải nối tiếp giữa tang bồng và thân trống. Cả mặt, tang và thân trống đều có các đường chỉ nhỏ chia trống thành các vành hoa văn lớn nhỏ khác nhau và được trang trí dày đặc.

Mặt trống: Phẳng, loe ra khỏi tang bồng, trên bề mặt trang trí các họa tiết, hoa văn thể hiện những nét tiêu biểu mang đặc trưng của văn hóa Đông Sơn. Chính giữa mặt trống đắp nổi hình mặt trời với 10 tia, xen giữa các tia là hoa văn chữ V lồng, bao quanh mặt trời là 08 vành hoa văn đồng tâm từ trong ra ngoài trang trí các hoa văn.

  • Vành thứ nhất là vành hoa văn gạch đứt
  • Vành thứ 2 là hoa văn đường tròn tiếp tuyến
  • Vành thứ 3 là hoa văn hình răng lược
  • Vành thứ 4 là hoa văn hình thoi
  • Vành thứ 5 là hoa văn đầu chim công
  • Vành thứ 6 là hoa văn hình chim lạc bay ngược chiều kim đồng hồ
  • Vành thứ 7 là hoa văn đường tròn tiếp tuyến
  • Vành thứ 8 là hoa văn hình răng lược

 

Tang trống: Hơi phình so với mặt trống gồm 04 vành hoa văn được trang trí lần lượt từ trên xuống dưới bao gồm: Hoa văn hình răng lược; hoa văn đường tròn tiếp tuyến; hoa văn hình răng lược và 06 chiếc thuyền chở người đội mũ lông công cách điệu đang chèo lái. Tại 4 góc cạnh quai trống trang trí hình ảnh 4 con cò đối xứng nhau, 2 con vếch mỏ lên, 2 con chúc mỏ xuống.

Thân trống: Thon dần từ trên xuống dưới trang trí các vành hoa văn: Hình thoi, hình người đội mũ lông công múa cách điệu, hoa văn hình răng lược, đường tròn tiếp tuyến và hoa văn hình răng lược phía dưới cùng.

 

Váy trống: Loe rộng tạo độ vững chắc, để trơn không trang trí hoa văn

Ba nền văn hóa khu vực Trung và Nam Bộ

1. Văn hóa tiền Sa Huỳnh

Cách ngày nay 4.000 – 3.000 năm.

Đặc điểm công cụ lao động của cư dân Sa Huỳnh là rất ít công cụ bằng đồng, mà chủ yếu là công cụ bằng sắt (cuốc, thuổng, liềm) và vũ khí (rìu, lưỡi cuốc, đục xòe cân, dao, kiếm, giáo). Có lẽ do nơi cư trú của cư dân văn hóa Sa Huỳnh rất hiếm quặng đồng nên ngành luyện kim đồng không phát triển.

Các nghề gốm, xe sợi, dệt vải, làm đồ trang sức cũng khá phát triển, họ còn biết nấu cát làm thủy tinh khá sớm. Họ chế tác nhiều đồ trang sức bằng thủy tinh rất đẹp. Hiện vật tìm thấy là các chuỗi hạt bằng đá, bằng đồng, bằng mã não, khuyên tai hai đầu thú.

2. Văn hóa Đồng Nai

Cách ngày nay khoảng 5.000 – 4.000 năm.

Các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai: Di tích Gò Cát (thành phố Hồ Chí Minh), Rạch Núi (Long An), Cái Vạn, Ngãi Thắng, Gò Mẻ, Dốc Chùa (Đồng Nai).

Cư dân văn hóa Đồng Nai làm nghề trồng lúa nước và các cây lương thực khác. Ngoài ra họ còn làm nghề khai thác sản vật rừng, săn bắn, làm nghề thủ công.

Các công cụ lao động tìm thấy gồm các công cụ bằng đá (cuốc, rìu, mũi nhọn, cuốc có vai), còn có nhiều công cụ bằng đồng và bằng sắt. Nhiều đồ trang sức bằng đá, thủy tinh, đồng và sắt.

3. Văn hóa Óc Eo

Cách ngày nay khoảng 2.000 – 1.500 năm.

Địa bàn phân bố chủ yếu ở các tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Bình Dương, Tây Ninh.

Trên cơ sở văn hóa Óc Eo, quốc gia cổ Phù Nam đã hình thành vào khoảng thế kỷ thứ I, phát triển vào các thế kỷ III – V và làm chủ cả một vùng rộng lớn ở Đông Nam Á. Cuối thế kỷ thứ VI, quốc gia Phù Nam suy yếu, đã bị Chân Lạp thôn tính.

Sự tích chim lạc theo Giáo sư Đào Duy Anh

Những người Việt trong bộ lạc ở bờ biển Phúc Kiến thường năm cứ theo gió mùa nhân gió bấc mà vượt đến miền duyên hải ở phương Nam. Đến tiết gió nồm họ lại vượt trở về nơi căn cứ.

Trong những đợt vượt biển hàng năm ấy, họ thường tự sánh mình với chim lạc, một loài hậu điểu ở miền Giang Nam, mà hàng năm đến mùa gió bấc họ thấy cũng dời bờ biển Giang Nam mà bay về Nam, đồng thời với cuộc xuất dương của họ. Đến mùa gió nồm họ thấy các chim ấy cũng trở lại miền Giang Nam, đồng thời với cuộc hồi hương của họ.

Vì thế mà dần dần trong tâm lý phát sinh một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa họ và loài chim ấy, rồi ý niệm trở thành quan niệm tô tem (vật tổ), khiến họ nhận chim lạc làm vật tổ. Cái tên vật tổ ấy trở thành tên của thị tộc, nên người ta cho rằng những người Việt tộc ấy là họ Lạc.

Những khi vượt biển họ thường hóa trang, mang lông chim Lạc ở đầu và ở mình để hóa thành hình trạng chim tổ và đặt khắp nơi trong thuyền hay mang ở mình những huy hiệu của chim vật tổ, những hành động ấy là cốt cầu vật tổ phù hộ cho họ được an toàn giữa biển khơi.

Các hình thuyền với các thủy thủ kỳ hình quái trạng trên tang trống đồng Ngọc Lũ chính là việc hình dung lại những chiếc thuyền mà tiền nhân của người Việt đã dùng để vượt biển từ Phúc Kiến đến. Những chim bay và chim đậu ở mặt trống chính là chim Lạc vật tổ ấy.

Về vương quốc Chămpa

1. Sự thành lập

Chămpa được thành lập vào thế kỷ thứ II, ban đầu có tên là Lâm Ấp, thế kỷ thứ VII mới đổi thành Chămpa.

Buổi đầu kinh đô của vương quốc này được đặt tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam. Nhưng vào giữa thế kỷ thứ VIII, đã được dời xuống phía nam và đặt ở khu vực Phan Rang, Nha Trang ngày nay. Đồng thời lúc này thư tịch cổ không còn chép là Lâm Ấp nữa mà gọi là Hoàn Vương.

Từ thế kỷ thứ IX kinh đô Chămpa có nhiều thay đổi. Vương quốc Chămpa lúc này gồm 5 tiểu vương quốc nhỏ khác nhau:

+ Tiểu vương quốc Indrapuda nay là khu vực Đồng Dương – Quảng Nam

+ Tiểu vương quốc Amaravati thuộc Đà Nẵng, Quảng Nam và có lúc cả khu vực Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay.

+ Vijaya thuộc Bình Định, Quảng Ngãi

+ Kauthara là khu vực Phú Yên, Khánh Hòa

+ Và Panduranga thuộc khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay.

=> Như vậy, mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau các vị vua Chiêm lại có sự thay đổi về kinh đô của mình.

2. Vị trí địa lý

Vương quốc Chămpa ở vào vị trí tuyệt đẹp ngay nơi gặp gỡ của các con đường hàng hải lớn của Đông Á. Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X người Chăm kiểm soát việc buôn bán gia vị giữa Đông Nam Á hải đảo và Trung Quốc, buôn bán tơ lụa giữa đế chế nhà Đường và đế chế Abbassid của Bagdad. Ngoài ra họ còn xuất ngà voi và gỗ trầm của họ sang Trung Quốc và cho người Ả Rập. Cùng với việc là chủ nhân của một nền hàng hải phát triển, cư dân Chăm pa còn được biết đến là những kẻ cướp biển nổi tiếng ở tất cả các biển phía Nam.

Vị trí địa lý thuận lợi không những giúp vương quốc Chămpa phát triển thương mại với các nước trong khu vực, mà còn tạo điều kiện cho sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa với 2 nước giáp ranh là Đại Việt ở khu vực phía bắc và Phù Nam ở khu vực phía nam.

3. Đời sống kinh tế sản xuất

Vào buổi đầu người Chămpa chủ yếu sống trên núi hơn là đồng bằng. Họ sống bằng các sản phẩm họ săn bắn, hái lượn và đánh bắt được. Về sau họ bắt đầu biết làm nông nghiệp, họ trồng mía, chuối, dừa, tiêu, trầu, cau và đủ các loại cây trồng để làm bện dây, làm chiếu và làm đồ đan lát.

Trong nông nghiệp họ sản xuất hai mùa mỗi năm, gạo trắng vào tháng 10 và gạo đỏ vào tháng 4. Mặc dù nông nghiệp được coi là một ngành sản xuất chính của Chăm pa, nhưng sự giàu có của vương quốc này từng khiến người Trung Quốc thèm thuồng lại được tạo ra từ mỏ, từ rừng, thương mại và cướp biển.

4. Đời sống xã hội tinh thần

Theo mô tả của các giả Trung Quốc thì người dân của vương quốc này có da đen, mắt sâu, mũi thẳng và cao, tóc quăn. Người dân búi tóc, phụ nữ búi tóc hình cái búa, xâu lỗ tai để đeo những chiếc vòng nhỏ bằng kim loại. Họ rất sạch, hàng ngày tắm rửa nhiều lần, xức dầu thơm, chà cơ thể với dầu long não và xạ hương, xông quần áo với một thứ hỗn hợp các loại gỗ thơm khác nhau. Nam nữ ăn mặc như nhau, y phục gồm một tấm vải bông quấn quanh người từ phải qua trái, từ lưng tới chân, người sang mang giày, người thường đi chân đất (1).

Nhà vua đội một cái mũ cao, có trang trí bông bằng vàng và một túm tua bằng lụa. Khi đi ra ngoài, nhà vua cưới trên một con voi, trống và tù và đi trước, có lọng bằng vải cát bối và có các gia nhân cầm cờ cũng bằng loại vải này vây quanh.

Hôn nhân của người Chăm được được cử hành vào tháng 8 và nữ đi hỏi rể trước.

Đám tang nhà vua cử hành 7 ngày sau khi vua mất, hài cốt vua được đựng trong một cái bình bằng vàng và ném xuống biển. Quan thì của hành sau 3 ngày và hài cốt được đựng trong một bình bằng bạc. Dân thì cử hành ngay ngày hôm sau và hài cốt được đựng trong một cái bình bằng đất nung.

Tôn giáo của Chăm pa từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX là Bà La Môn giáo, trong đó thần Shiva được tôn thờ đặc biệt. Họ dựng lên đền thờ để tôn kính các vị thần như là một biểu tượng mang hình ảnh của chính họ. Dưới nét của các vị thần linh họ sẽ nhập vào sau khi qua đời. Vì vậy mà người ta gặp ở đây cũng như ở khắp Đông Nam Á sự cộng sinh giữa việc thờ cúng tổ tiên với các thần linh và tư tưởng tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.

1. Mã Đoan Lâm, Dân tộc học các dân tộc ngoài Trung Quốc, vùng phía Nam, trang 420-425; G. Maspero, Le Royaume de Champa [Vương quốc Chămpa], Paris, 1928, trang 8 tt.

Lý giải bí ẩn các cổ vật trong túi Khót của ông Mo Mường – Hòa Bình

Mo Mường là một loại hình văn hóa phi vật thể của người Việt cổ, có cơ sở vững chắc về mặt khoa học bởi nó được chứng minh thông qua túi Khót của các ông thầy Mo.

Thời tiền sử người Việt cổ tại Hòa Bình đã có những quan niệm về nhân sinh quan vũ trụ được biểu hiện trong các sử thi Mo Mường. Họ quan niệm trời sinh ra trước, đất sinh ra sau. Quan niệm này rất giống với quan niệm của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia nói tiếng Slavơ ở châu Âu, nước Ai Cập cổ đại hay người Inca ở châu Mỹ… Đây là một quan niệm rất khoa học mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu khoa học đã phải thừa nhận nó.

Trong cuộc đấu tranh sinh tồn của người Việt cổ nói riêng và loài người nói chung, con người đã biết tạo ra các công cụ lao động sản xuất, vũ khí bằng những nguyên vật liệu và kỹ thuật thô sơ, mà trong đó có những tạo hình vẫn được kế thừa cho đến tận ngày nay.

Trong những năm vừa qua đã có rất nhiều các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh, những người tâm huyết với di sản văn hóa Mo Mường – Hòa Bình, đã bỏ rất nhiều tiền của, thời gian, công sức để ghi chép lại các áng Mo, sử thi về Mo. Tổ chức rất nhiều các lễ hội và chuyển thể một số áng Mo thành các ca khúc với ca từ gần gũi với đời sống thường ngày của người dân… Tất cả vấn đề trên đều toát lên chủ đề xuyên suốt về giáo dục con người tiến bộ mà cho đến ngày nay vẫn chưa hề lạc hậu. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Mo Mường – Hòa Bình rất quan trọng và khẩn cấp, nó có vai trò không chỉ đối với nhân dân Hòa Bình mà còn cả dân tộc Việt chúng ta ngày nay.

Một điều rất quan trọng ở đây đó là vì có quan niệm nhân sinh quan nên trong túi Khót của các ông Mo Mường luôn luôn có các viên sa thạch (testit màu đen hình bánh dầy) và các viên đá bán quý có độ cứng từ 6 – 8 mohs được tìm kiếm và khai quật trong lòng đất. Ngoài ra còn có rất nhiều các vật chứng lịch sử liên quan đến các nghi lễ truyền thống của người Mường, được làm bằng các chất liệu đá, đồng, nhuyễn thể… Những vật chứng này được giữ gìn qua nhiều thế hệ, sử dụng làm đồ tế khí để tạo thêm sức mạnh huyền bí, phục vụ công tác giáo dục cộng đồng về quá trình đấu tranh sinh tồn của loài người.

Qua đây tôi xin phân tích về túi Khót của các ông Mo như sau:

Hiện vật trong túi Khót của các ông Mo Mường. Nguồn: Internet

Trải qua nhiều thế hệ, túi Khót của các ông Mo luôn được giữ gìn như một báu vật mà không phải ai cũng được xem và sờ vào. Trong túi Khót đó lưu giữ những vật chứng lịch sử vô cùng quý giá và khác biệt với các vật chứng lịch sử do các nhà khảo cổ học khai quật được vì lý do sau đây:

Thứ nhất, viên thiên thạch theo quan niệm của người Mường là ông trời rơi xuống tạo ra Trái đất và viên đá bán quý là vật chứng lịch sử quý nằm trong lòng  đất. Hai vật chứng này thể hiện cho quan niệm về thiên địa nhân hợp nhất của người Mường, họ đã biết sử dụng những vật quý ở trên trời và dưới đất cùng các công cụ lao sản xuất để thu phục thú dữ, chinh phục thiên nhiên tạo ra sức mạnh nhằm giáo dục cộng đồng sống đoàn kết, đấu tranh chống thiên nhiên, tăng cường sức sống trước sự khắc nghiệt của thời tiết ở các giai đoạn tiền sử và sơ sử.

Thứ hai, bên cạnh các viên sa thạch và đá bán quý, trong túi Khót của các ông Mo còn có rìu đá, vòng tay đá có niên đại hàng chục nghìn năm trong văn hóa Phùng Nguyên; rìu xéo và mũi giáo đồng cách ngày nay hàng nghìn năm trong văn hóa Đông Sơn cùng các vật chứng bằng nhuyễn thể như xương, sừng, nanh vuốt của các loài thú dữ. Tất cả các vật chứng lịch này được lưu giữ lại thể hiện quan niệm con người…

Qua các vật chứng lịch sử này, chúng ta có thể thấy được sức mạnh của túi Khót khi các thầy Mo làm lễ mang đến sức thuyết phục cao đối với cộng đồng và hướng cộng đồng tới những áng Mo mang tính giáo dục và nhân văn sâu sắc.

Một góc nhìn khác về sự thành lập vương triều Lý

Lê Long Đĩnh trên ngôi vua tỏ ra là một người độc ác, khát máu, lấy việc chém giết làm thú tiêu khiển. Vì vậy, mà phái tăng đạo mấy lâu vẫn ủng hộ nhà Lê, cũng không chịu nổi những hành động tàn bạo của Long Đĩnh – việc Long Đĩnh ngược đãi sư Quách Ngang có thể là chứng tỏ mối mâu thuẫn giữa nhà vua và phái tăng nhân đã có thái độ đối lập.

Sư Vạn Hạnh từng làm cố vấn cho Lê Hoàn, đã chán gét nhà Lê đến nỗi đặt ra câu sấm đoán trước sự diệt vong của nhà Lê và sự hưng khởi của nhà Lý để khuyên Lý Công Uẩn cướp ngôi.

Nhân lòng oán ghét của tất cả các tầng lớp xã hội đối với nhà Lê, Lý Công Uẩn là Điện tiền chỉ huy sứ trông nom quân cận vệ, quyết định thực hiện âm mưu soán đoạt. Lý Công Uẩn vốn quê ở làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay), khi nhỏ làm con nuôi nhà sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Vân nên lấy họ là Lý. Công Uẩn khéo thu phục được tình cảm của tất cả quân lính ở dưới tay mình và được bọn quan liêu văn võ trong triều kính phục. Sau khi Long Đĩnh chết năm 1009 – vì nhiều bệnh tật nên Long Đĩnh chết non mới 24 tuổi – Công Uẩn âm mưu với một người bộ hạ là Đào Cam Mộc để giảng dụ bọn triều quan tôn Công Uẩn làm vua. Mọi người đều theo Cam Mộc bèn tổ chức lễ đăng cực cho Công Uẩn. Vương triều Lý được thành lập.

Theo “Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX, quyển thượng, Nxb Xây dựng, 1955”.