Archives

Về bốn chiếc ấn thời Tây Sơn

Trong một bộ sưu tập tư nhân ở TP. Hồ Chí Minh, hiện lưu giữ bốn chiếc ấn thời Tây Sơn, hai chiếc được tìm thấy ở huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định và hai chiếc tìm thấy ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Bốn chiếc ấn đều bằng đồng, chế tạo thủ công theo cùng một phương pháp đúc và gia công kim loại, nên có cùng một kích thước: dày 0,7cm, rộng 11cm, cao 5,5cm, nặng 750gr.


Một bộ sưu tập ấn triện ở TP Hồ Chí Minh (ảnh chỉ mang tính minh họa). Ảnh: VNN

Mỗi chiếc ấn đều có hai phần: núm và thân. Núm cao 4,5cm có hình con tiện đầu tròn, lưng ấn có hai bậc cấp. Trên hai cạnh dọc của bậc cấp trên có hai hàng chữ Hán khắc vạch kiểu chân, hàng phải ghi ngày tháng năm tạo ấn, hàng trái ghi tên ấn. Mặt ấn khắc tên ấn chữ Hán triện, nét khắc dày, rõ.

Chiếc ấn thứ nhất, tìm thấy ở huyện Vĩnh Thạnh năm 1994. Hàng chữ dọc bên phải lưng ấn ghi: “Tân Hợi niên đông tạo” (làm vào mùa đông năm Tân Hợi – 1791, tức năm thứ 4 niên hiệu Quang Trung, năm thứ 14 niên hiệu Thái Đức), hàng chữ dọc phía trái gồm bảy chữ: “Khâm Sai Tiền Thủy Chi Đô Đốc” (Đô đốc vua sai chỉ huy tiền quân của thủy binh). Mặt ấn có bảy chữ Hán triện: “Khâm sai/ Tiền Thủy chi/ Đô đốc”.

Chiếc ấn thứ hai cũng tìm thấy ở Vĩnh Thạnh, năm 1997. Hàng chữ bên phải lưng ấn ghi: “Bính Thìn niên quí đông nguyệt cát nhật tạo” (làm ngày tốt tháng 12 năm Bính Thìn – 1796, tức năm thứ 5 niên hiệu Cảnh Thịnh), hàng chữ dọc bên trái ghi: “Trung thủy chi Đại Đô đốc (Đại Đô đốc chỉ huy trung quân của thủy binh). Mặt ấn có sáu chữ Hán: “Trung thủy chi/ Đại Đô đốc”.

Chiếc ấn thứ ba được tìm thấy ở huyện Thăng Bình (Quảng Nam) năm 1999. Lưng ấn, hàng chữ dọc bên phải ghi: “Bính Thìn niên trọng xuân nguyệt cát nhật tạo” (làm ngày tốt tháng 2 năm Bính Thìn – 1796), hàng chữ dọc bên trái ghi: “Tả bật đạo Trung Định hữu dinh định hùng nhị vệ Đô ty” (Đô ty chỉ huy vệ định hùng thứ hai thuộc dinh phía phải mang tên Trung Định của đạo quân tả bật). Mặt ấn có 13 chữ Hán triện: “Tả Bật đạo Trung Định / Hữu dinh định hùng / Nhị vệ Đô ty”.

Chiếc ấn thứ tư cũng được tìm thấy ở Thăng Bình cùng thời điểm với chiếc ấn thứ ba. Hàng chữ dọc bên phải lưng ấn ghi: “Đinh Tỵ niên mạnh xuân nguyệt cát nhật tạo” (làm ngày tốt tháng 1 năm Đinh Tỵ – 1797, tức năm thứ 6 niên hiệu Cảnh Thịnh), hàng chữ dọc bên trái ghi: “Trinh Hùng vệ phụng thất hiệu Phó Đô ty” (Phó Đô ty phụng mệnh chỉ huy hiệu thứ bảy trong vệ quân Trinh Hùng). Mặt ấn có 9 chữ Hán triện: “Trinh Hùng vệ phụng thất hiệu/ Phó Đô ty”.

Căn cứ những yếu tố trên, đối chiếu với sử liệu, có thể xác định về niên đại, triều đại cũng như chủ nhân của chúng. Bốn chức quan trong ấn: Đại Đô đốc, Đô đốc, Đô ty và Phó Đô ty. Đại Đô đốc, Đô đốc là những chức quan võ cao cấp được nhắc dưới thời Lê và dưới thời Tây Sơn, không thấy dưới thời Nguyễn. Còn Đô ty là võ quan chỉ huy một vệ quân và Phó Đô ty là cấp võ quan chỉ huy một hiệu của vệ quân thời Tây Sơn. Qua chiếc ấn thứ ba, ta thấy hệ thống đơn vị quân đội được sắp xếp: lớn nhất là “đạo”, kế tiếp là “dinh” rồi đến “vệ”. Binh chế nhà Lê, nhà Nguyễn không có đơn vị “đạo”. Về kiểu dáng, bốn chiếc ấn cùng có một mẫu với chiếc ấn thời Tây Sơn đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà Nội).

Bốn chiếc ấn trên là những hiện vật quý, bởi hiện vật thời Tây Sơn, nhất là các hiện vật có niên đại tuyệt đối, còn lại không nhiều. Thông qua những hiện vật, chúng ta biết thêm thông tin về quân đội thời Tây Sơn như: phiên hiệu, đơn vị, chức quan.

Nguồn: Báo Bình Định (baobinhdinh.com.vn)

Khám phá trống đồng Hoàng Hạ

Mỗi một cổ vật được phong làm Bảo vật Quốc gia đều phải hết sức quý giá, lại độc bản. Thêm nữa, như số phận đời người, những bảo vật này có thể kể cho chúng ta biết bao nhiêu là chuyện.

Trống Hoàng Hạ được các nhà khoa học coi là “Á Hậu” trong cuộc thi vẻ đẹp của trống đồng Đông Sơn ở ta. Mà trống Hoàng Hạ đẹp thật, có lẽ chỉ kém trống Ngọc Lũ đương kim “Hoa Hậu” tí tí. Trống có dáng đẹp, thân trống chia ba phần cân đối. Đường kính mặt 78,5cm chiều cao 61,5cm. Trang trí giữa mặt trống là hình ngôi sao có 16 cánh. Xung quanh ngôi sao là 15 vành hoa văn, có những hoa văn đẹp và hiện thực như: hình 14 con chim bay mỏ dài, đuôi xòe và chân dài. Lại có vành hoa văn người múa hóa trang đang cầm giáo đồng, rìu đồng và khèn bè trong cảnh một ngày hội mùa hay hội làng náo nhiệt. Có cả cảnh hai ngôi nhà sàn mái cong, trên nóc có hình chim đậu, bên trong có cảnh người ngồi đánh trống da, hình trống đồng và cảnh đôi nam nữ ngồi giữa nhà đang đập tay vào nhau như một trò hát đối đáp xưa kia. Nối với căn nhà sàn mái cong này là một sàn nhà khác có cảnh 4 người đang ngồi đánh trống đồng, cầm dùi gõ thẳng xuống 4 chiếc trống đồng đang úp sấp. Gần đó là cảnh đôi trai gái đang giã gạo chày tay. Kế tiếp là hai ngôi nhà sàn đối xứng nhau qua tâm trống có mái cong và đôi chim đang đậu trên nóc. Dường như người nghệ sĩ xưa muốn biểu thị không khí ngày hội có nhiều nét giống với ngày hội của các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay, cũng có cảnh trai gái trong trang phục ngày hội đang múa vòng tròn quanh cột thiêng chuẩn bị đâm trâu.


Trống đồng Hoàng Hạ


Hình người chèo thuyền và chim ngậm mồi trên tang trống Hoàng Hạ


Vùng trũng bốn huyện phía nam Hà Nội: trước văn hóa Đông Sơn chưa có người cư trú. Sau đó, làn sóng dân vùng cao tràn xuống khai hoang, cũng là nơi đào được trống Hoàng Hạ.

Tang trống miêu tả một đoàn thuyền gồm 6 chiếc. Trên thuyền có hoa văn người đánh trống, người hóa trang đội mũ cắm lông chim cầm giáo, người ngồi đánh trống, người cầm mái chèo. Trên mỗi thuyền lại có lầu cao, tầng dưới để trống đồng, tầng trên có người dương cung chuẩn bị bắn. Lại còn có cảnh một người tay cầm giáo, tay khác túm tóc một người đang trần truồng như trong cảnh chuẩn bị giết tù binh làm lễ hiến tế. Xen giữa các thuyền là các hình chim đứng và dưới các chiếc thuyền là hoa văn hình cá bơi. Phần giữa thân gọi là lưng trống có cảnh chiến binh đang cầm rìu chiến và cũng được hóa trang lông chim.

Hoa văn trên trống đồng Hoàng Hạ đại thể là như vậy, thuộc loại trống Đông Sơn có những hoa văn hiện thực tả người, chim, nhà sàn, thuyền đẹp nhất trong nhóm trống đứng đầu về nghệ thuật tạo hình là Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà và Cổ Loa. Người xưa tạo ra những hoa văn tuyệt mĩ như vậy, nhưng không phải là vô tình, mà đều là biểu tượng. Mỗi hoa văn đều mang ý nghĩa nhất định, mà cho đến nay, mỗi học giả trong và ngoài nước đều giải mã một cách khác nhau. Thế mới biết cái ngôn ngữ nghệ thuật thật là đa nghĩa. Xưa cũng vậy mà nay cũng thế.

Người đầu tiên cho rằng trống đồng Hoàng Hạ là một công cụ lịch pháp của người Việt cổ là nhà nghiên cứu Bùi Huy Hồng. Ông cho rằng trống này là công cụ để đo bóng mặt trời để biết thời điểm ngày Xuân Phân hay Thu Phân, Đông Chí hay Hạ Chí tương ứng với các ký hiệu hoa văn trên mặt trống. Cách đây hơn 40 năm, ông đã có một thí nghiệm đo bóng mặt trời trên trống Hoàng Hạ, đặt trống thăng bằng úp trên mặt đất rồi dùng dây dọi đặt cột đo cao 345 mm đứng ở giữa tâm trống (độ cao của cột đo bóng nắng trong thí nghiệm ngày nay). Kết quả là khi nào bóng của đầu chiếc cột đo lúc giữa trưa ngả đúng vào đường giữa dây cung hoa văn trên trống thì ngày đó là ngày Xuân Phân hay Thu Phân. Theo ông, chính mặt chiếc trống đồng tìm được ở Hà Nội này là một chiếc đồng hồ mặt trời, một tấm lịch, một bức Thiên Đồ của thời Hùng Vương.

Cách kiến giải của ông Bùi Huy Hồng đã gây ra tranh cãi trong giới khoa học. Cũng chẳng rõ người xưa có coi trống Hoàng Hạ là lịch pháp hay không, nhưng rõ ràng cũng là một cách gợi ý giải mã hoa văn đáng lưu ý. Người Việt xưa không phải vô tình tạo ra các hoa văn chỉ đơn thuần là chạy theo cái đẹp. Qua hoa văn trống Hoàng Hạ và so sánh nhiều nguồn tư liệu thì nhiều nhà khoa học cho rằng đoàn người cầm vũ khí quanh hình mặt trời (được thể hiện là ngôi sao 16 cánh) có liên quan đến lễ hội. Có thể là lễ hội đâm trâu hay đâm bò, mà trên một chiếc trống Đông Sơn cùng thời còn có nguyên cảnh này với cây cột thiêng cột chặt một con bò có u và cạnh đó là chiến binh cầm rìu bổ xuống. Tang trống Hoàng Hạ thì có cảnh hiến tế trên thuyền, liên quan đến lễ hội cầu nước phổ biến ở nhiều vùng nước ta.

Trống Hoàng Hạ còn giúp các nhà sử học dựng được bức tranh lịch sử của thủ đô Hà Nội cách đây hơn 2000 năm. Trống được phát hiện ở độ sâu 1,5m trong lòng đất ngày 13 tháng 7 năm 1937 khi người dân đào mương ở xóm Nội, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên. Cái giá trị lịch sử nhất ở chỗ trống được phát hiện ngay trong lòng đất, chứng tỏ cư dân cổ đại ở đây phải là chủ nhân, từng sử dụng và chôn cất trống, chứ không phải sưu tập ngẫu nhiên ở đâu đó. Cũng tức là người Việt ở bên bờ sông Hồng là chủ nhân trống đồng. Bản quyền đúc những chiếc trống đẹp như Hoàng Hạ là tổ tiên chúng ta. Gần đây việc phát hiện ra một mảnh khuôn đúc trống lại càng khẳng định điều này.

Việc phát hiện trong lòng đất chiếc trống Hoàng Hạ ở Phú Xuyên lại giúp cho các nhà khảo cổ biết được nhiều điều bí ẩn của vùng đất này hơn nữa. Cách đây khoảng 5000 năm cả vùng Hà Nội ngày nay là vịnh biển, chỉ có …cá mới sống được. Đến thời điểm 4000 năm, khi nước biển rút đi (mà thuật ngữ khoa học gọi là thời kỳ biển thoái), thì đồng bằng mới lộ ra dần dần. Rồi lại phù sa sông Hồng bồi đắp mới có con người từ vùng núi và trung du đổ về khai hoang lập ấp. Một vài làng cổ còn để lại dấu tích trong lòng đất những đồ gốm, đồ đá, đồ đồng.

Tuy nhiên, không phải chỗ nào người cổ cũng lập làng được, mà chỉ ở những vùng đất cao ráo. Các vùng thấp như 4 huyện ngoại thành Hà Nội ngày nay là Phú Xuyên, Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức còn quá lầy lội chưa thích hợp với sự khai hoang. Trước thời kỳ văn hóa Đông Sơn, không có một di tích nào chứng tỏ có con người sinh sống ở các huyện này.

Chỉ đến thời điểm cách đây hơn 2000 năm, cái vùng trũng bốn huyện của Hà Nội mới được phù sa bồi đắp dần cao lên, người Việt mới tràn về ồ ạt để khai hoang, lập làng mới. Theo thống kê thì số người khai hoang, chinh phục đồng bằng ở vùng đất trũng bốn huyện Hà Nội đã làm nên một làn sóng tụ cư mới, sinh con đẻ cái và một cuộc “nổ bùng dân số” bắt đầu. Họ đã đúc nên một số trống đồng đẹp như trống Hoàng Hạ. Có thể chiếc trống này được sử dụng trong ngày hội, rồi lại là đồ tùy táng chôn theo người chết mà ngày nay thân xác chẳng còn, chỉ còn lại trống đồng mà thôi.

Trống Hoàng Hạ trong lòng đất Phú Xuyên, vì thế như một chứng tích của cư dân văn hóa Đông Sơn chinh phục vùng đất trũng, còn ngập mặn. Đó cũng là bằng chứng của sự gian lao vô bờ bến và công sức khai hoang mảnh đất phía nam Hà Nội khi đó. Biết bao mồ hôi của người xưa đã đổ ra để cải tạo mảnh đất Phú Xuyên thành những cánh đồng nặng trĩu hạt lúa như ngày nay.

Cái quá trình chinh phục đồng bằng của người Việt cổ còn tiếp tục diễn ra sau cái thời của trống đồng Hoàng Hạ hàng nghìn năm nữa, cho đến tận ngày nay, nếu như chúng ta biết được cái vùng Phú Xuyên bây giờ cũng vẫn còn là vùng trũng của Hà Nội, vẫn cùng với những vùng trũng của Hà Nam, nơi phát hiện trống Ngọc Lũ trước đây, là những vùng đất làm nông còn vất vả vì “chiêm khê, mùa thối” vốn còn dư âm vùng trũng của một vịnh biển cách đây vài ngàn năm.

Thế mới biết, người Việt ở vùng Phú Xuyên ngày xưa đã tốn bao công sức để cải tạo đồng ruộng, trồng lúa để mưu sinh mà lại còn sáng tạo ra được những chiếc trống đồng tuyệt tác như Hoàng Hạ nữa. Và, sự phát hiện trống Hoàng Hạ đã góp cho di sản văn hóa Việt Nam một bảo vật Quốc gia, lại còn giúp cho hậu thế biết được công ơn của những người Hà Nội xưa đi khai hoang lập ấp ra sao nữa.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Rồng bay – Nghệ thuật cung đình Việt Nam

Rồng là một linh vật huyền thoại do con người tưởng tượng ra, là sản phẩm sáng tạo của nghệ thuật, xuất hiện từ lâu đời trong cả văn hóa phương Đông lẫn phương Tây. Tại mỗi nước, mỗi khu vực khác nhau, đặc điểm cấu trúc và ý nghĩa biểu tượng của chúng cũng khác nhau. Song, nhìn chung chúng là tập hợp những yếu tố quý và mạnh lấy từ những con vật có thật. Bởi vậy, theo quan niệm xưa, rồng là hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc được gán ghép với những khả năng và quyền lực phi phàm chi phối nhân sinh, vũ trụ.

Ở Việt Nam, hình tượng Rồng đã xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước và trở thành biểu tượng linh thiêng gắn với Tổ Tiên, cội nguồn dân tộc thông qua truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”. Mặt khác, do nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước, Rồng Việt Nam còn giữ vai trò là một Phúc thần mang đến mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Do đó, hình tượng Rồng tuy không có thực nhưng rất gần gũi, gắn bó với người Việt.

Trong buổi đầu hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, cộng đồng cư dân Việt cổ – chủ nhân sáng tạo nên Văn hóa Đông Sơn, nền văn minh cổ rực rỡ đầu tiên ở Việt Nam – đã định cư và liên kết vững chắc thành cộng đồng quốc gia – dân tộc. Lúc này, ý thức dân tộc đã nảy sinh và định hình, cư dân Lạc Việt đã bắt đầu xây dựng huyền thoại về nguồn gốc dân tộc, tín ngưỡng sùng bái vật tổ. Họ đã chọn cá sấu, con vật dũng mãnh sống dưới nước làm vật tổ. Nhưng đó không hoàn toàn là cá sấu trong thực tế mà đã được cách điệu thành giao long với chiếc đầu nhọn, thân thon dài, đuôi uốn cong, có hai hoặc bốn chân, đôi khi xuất hiện sừng hoặc bờm trên đầu. Hình ảnh những cặp giao long châu đầu, dựa lưng, áp mình vào nhau xuất hiện nhiều trên đồ đồng Đông Sơn đã trở thành biểu tượng sức mạnh của người Việt cổ. Tuy nhiên, sang những thế kỷ đầu công nguyên, trong bối cảnh giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Bắc, hình thức rồng sơ khai, bản địa của người Việt đã chuyển đổi từ thân bò sát sang thân thú, đồng thời cũng mang thêm nhiều yếu tố tưởng tượng hơn.


Rìu đồng trang trí hình giao long Văn hóa Đông Sơn, khoảng 2500 – 2000 năm cách ngày nay.

Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư hẻo lánh ra Đại La, điểm trung tâm của đất nước, rồi mượn hình tượng rồng bay để đặt tên cho kinh đô mới Thăng Long, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc. Theo xu hướng thời đại đó, hình tượng rồng đã được xây dựng hoàn chỉnh ngay từ đầu và trở thành biểu tượng của vương quyền. Nó hiện lên đầy sáng tạo, độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Dù trên bất cứ di tích, chất liệu nào, cấu trúc và phong cách rồng thời Lý đều tương đối thống nhất với đặc trưng nổi bật là trên đầu có mào lửa, thân mình trơn nhẵn, tròn trặn, thon nhỏ như thân rắn, uốn nhiều khúc hình sin mềm mại, nhẹ nhàng theo kiểu thắt miệng túi. Các chi tiết bờm, râu, lông khuỷu chân luôn theo một nhịp điệu tương đồng với thân rồng… Tất cả tạo nên một phong cách hoàn chỉnh quy phạm nhưng cũng đầy trau chuốt, tinh tế và thanh thoát. Điểm khác biệt có thể nhận ra đó là chiều hướng vận động của rồng: bay theo phương nằm ngang, thẳng đứng, trong ô hình chữ nhật, hình tròn hoặc hình lá đề, lá sen…

Lá đề chạm hình rồng Đá, thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Chùa Phật Tích, Bắc Ninh.

Mảnh tháp chạm nổi hình rồng Gốm men trắng, thời Lý, thế kỷ 11 – 13.

Sang thời Trần (thế kỷ 13 – 14), do sự chuyển giao triều đại diễn ra trong hòa bình nên về cơ bản hình thức rồng thời kỳ này là sự phát triển trên cơ sở kế thừa phong cách rồng thời Lý. Tuy nhiên, tinh thần thượng võ hình thành nên qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã dần tạo một khí thế, phong cách mới cho con rồng nhà Trần. Nó trở nên khỏe khắn, mập mạp hơn, số lượng khúc uốn cũng ít đi. Đồng thời, một số chi tiết mới bắt đầu xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến như cặp sừng hoặc vây lưng hình răng cưa. Tổng quan cho thấy, rồng thời Trần đã giảm đi sự trau chuốt, hướng tới sự phóng khoáng, đơn giản nhưng khỏe khoắn.

Bộ cánh cửa chạm hình rồng Gỗ, thời Trần, thế kỷ 13 – 14. Chùa Phổ Minh, Nam Định.

Tới thời Lê sơ (thế kỷ 15) – thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam, Nho giáo phát triển tới đỉnh cao. Triều đình đã có những quy định chặt chẽ về điển lễ vương triều, rồng trở thành biểu tượng của đấng thiên tử. Những thứ có vẽ rồng 5 móng chỉ dành riêng cho nhà vua. Bởi vậy, hình tượng rồng trong nghệ thuật thời kỳ này gần như biến đổi hẳn. Những yếu tố truyền thống đã dần mất đi và thay vào đó là mẫu hình rồng thể hiện sự tiếp thu từ con rồng phương Bắc với những quy định cụ thể như mắt quỷ, mũi sư tử, thân rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng, vây lưng hình răng cưa sắc nhọn… Do đó, hình thức rồng trở nên uy nghi, oai vệ và dữ tợn hơn. Đặc điểm cấu trúc và xu hướng vận động của rồng cũng rất đa dạng. Nhà Mạc tuy chỉ tồn tại mấy chục năm trong thế kỷ 16, nhưng cũng đã kịp định hình một phong cách nghệ thuật riêng mà dấu ấn nổi bật là khúc thân uốn hình yên ngựa. Nói chung, rồng thời Mạc đã bớt đi vẻ uy nghi so với rồng Lê sơ. Sang thời Lê Trung Hưng, khúc thân uốn yên lưng ngựa này đã dần bị loại bỏ. Đặc biệt, từ thế kỷ 17, khi văn hóa dân gian phát triển mạnh, hình tượng rồng cũng đã kịp thời thích ứng. Bên cạnh những hình rồng uy nghi trong nghệ thuật cung đình, đã xuất hiện ngày càng phổ biến những mô típ rồng mang đậm tâm thức dân gian, thể hiện sự vui tươi, phóng túng, đặc biệt là trong điêu khắc gỗ đình làng. Mảng chạm hình rồng bị chó đuổi ở chùa Cói (Vĩnh Phúc) hay hình rồng nô đùa với thú ở đình Thổ Hà (Bắc Giang)… là những minh chứng rõ nét.


Thềm rồng Điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long. Đá, Thời Lê sơ, thế kỷ 15.

Chân đèn đắp nổi hình rồng Gốm hoa lam, thời Mạc, năm 1580.

Đỉnh trang trí hình rồng Gốm men rạn, thời Lê Trung hưng, năm 1736. Lò gốm Bát Tràng.

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Thời kỳ này, rồng được coi là linh vật đứng đầu trong bộ tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng. Đặc điểm nhận dạng của rồng thời Nguyễn là có đuôi xoáy tròn hoặc xòe rẻ quạt. Trong nghệ thuật cung đình, rồng đã trở lại vẻ uy nghi, biểu trưng cho sức mạnh vương quyền. Đặc điểm hình thức của rồng cũng được quy định riêng cho vua, hoàng tộc hoặc từng phẩm hàm quan lại khác nhau…, trong đó dành cho vua luôn là rồng 5 móng. Bên cạnh đó, rồng trong nghệ thuật dân gian vẫn tiếp mạch phát triển từ thời kỳ trước. Bởi vậy có thể nói, hình tượng rồng thời Nguyễn hiện lên vô cùng đa dạng như rồng bay trong mây, rồng ngậm chữ Thọ, rồng chầu mặt trời… Đặc biệt, hình tượng rồng cách điệu từ cỏ cây, hoa lá như trúc hóa rồng, lá hóa rồng, mai hóa rồng… cũng xuất hiện phổ biến và ngày càng trở nên gần gũi.


Chậu trang trí rồng Vàng, hiện vật cung đình Triều Nguyễn.

Như vậy, trải qua quá trình phát triển mấy ngàn năm, hình tượng rồng trong nghệ thuật Việt Nam đã nhiều lần biến chuyển, mỗi giai đoạn lịch sử lại mang những đặc điểm, phong cách nghệ thuật khác nhau, nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố kế thừa, bảo lưu truyền thống rõ nét. Đồng thời, có những giai đoạn, hình tượng rồng Việt Nam cũng mang những nét thể hiện sự giao lưu, tiếp biến từ văn hóa bên ngoài. Nhưng việc tiếp thu này không phải là sự sao chép từ nguyên bản mà là sự chọn lọc những tinh hoa và cải biến nó cho phù hợp với thẩm mỹ dân tộc, từ đó hình thành những đặc trưng riêng mang đậm bản sắc Việt Nam.

Nhân năm Việt Nam tại Pháp 2014, Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam và Bảo tàng quốc gia Nghệ thuật Châu Á Guimet đã phối hợp tổ chức trưng bày đặc biệt: Rồng bay – Nghệ thuật cung đình Việt Nam. Lần đầu tiên, những tác phẩm nghệ thuật cung đình độc đáo mang hình tượng rồng, ý niệm về nguồn cội của dân tộc Việt Nam, chứa đựng những tinh hoa nghệ thuật truyền thống và giá trị lịch sử đặc sắc được giới thiệu tới công chúng Pháp và bạn bè thế giới. Trưng bày mở cửa từ ngày 08/7/2014 đến ngày 15/9/2014 tại Bảo tàng Nghệ thuật quốc gia Châu Á Guimet, Paris (Pháp).

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

“MÔN HẠ SẢNH ẤN” – Chiếc ấn cổ minh chứng cho tổ chức chính quyền triều Trần

Trong số 30 hiện vật, nhóm hiện vật tiêu biểu được Thủ tướng công nhận Bảo vật quốc gia Đợt 1, quyết định số 1426/QĐTTg ngày 1/10/2012 có ấn đồng MÔN HẠ SẢNH ẤN. Tên gọi như thế là theo phiên âm 4 chữ theo thể Triện thư trên mặt ấn.

Theo tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Lịch sử quốc gia và văn bản trình Hội đồng Giám đinh cổ vật Bộ Văn hóa ,Thể thao và Du lịch, ấn được phát hiện tại xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh vào năm 1962. Hiện nay ấn đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam. Ấn mang số hiệu đăng ký tài sản quốc gia LSb.25266. Ấn đã được giới thiệu trong cuốn sách Cổ Vật Việt Nam, số ảnh 119, tr.98 (Lưu Trần Tiêu, chủ tịch Hội đồng, 2003).

Ấn được đúc hình vuông, tạo ba cấp khá đều. Ấn có chiều cao 8,5cm, mặt ấn hình vuông, cạnh 7,3cm x 7,3cm, nặng 1,4kg. Quai ấn tạo hình chữ nhật dẹt, chỏm cong, giống như hình bia đá. Hai bên cạnh lưng ấn khắc hai dòng chữ Hán. Bên phải khắc 4 chữ, phiên âm: “Môn hạ sảnh ấn” (Ấn sảnh Môn hạ). Bên trái khắc 11 chữ, phiên âm: “Long khánh ngũ niên, ngũ nguyệt, nhị thập tam nhật tạo” (dịch nghĩa: chế tạo vào ngày 23 tháng 5, năm thứ 5 niên hiệu Long Khánh, đời vua Trần Duệ Tông, 1377).


Ấn đồng: Môn hạ sảnh ấn – niên đại 1377 (đời Trần Duệ Tông)

Mặt ấn đúc nổi 4 chữ theo thể Triện thư “Môn hạ sảnh ấn” (Ấn sảnh Môn hạ). Sảnh Môn hạ là cơ quan Trung ương nằm trong bộ ba “Tam sảnh” gồm: sảnh Thượng thư, sảnh Trung thư và sảnh Môn hạ. Đây là ba cơ quan cao nhất của triều đình nhà Trần. Sảnh Thượng thư có nhiệm vụ giúp Tể tướng quản lý các việc có liên quan đến quan chức, chức Hành khiển Thượng thư đứng đầu. Hành khiển là chức rất lớn, bao trùm các chức Lệnh thị lang, Tả Hữu ty Lang trung. Sảnh Trung thư giữ việc bàn bạc mọi việc trọng đại của quốc gia. Sảnh Môn hạ là cơ quan thân cận của nhà Vua, có nhiệm vụ giữ bảo ấn, chuyển lệnh của Vua tới các quan, nhận lời tấu của Vua và các công việc lễ nghi trong cung. Sảnh Môn hạ còn giữ quyền thẩm tra kiểm duyệt mọi việc sau đó mới được ban bố thi hành. Chức quan này ở sảnh Môn hạ triều Trần cũng đều do những đại thần tài giỏi đảm nhiệm như: vào năm thứ 6 niên hiệu Khai Thái (1329), đời vua Trần Minh Tông phong cho Vũ Nghiêu Tá làm Nhập Nội Hành Khiển, Hữu Ty Lang Trung, sảnh Môn hạ (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, 1972, t.2, tr.135)… Vào năm thứ 11 niên hiệu Khai Hựu (1339), vua Trần Hiến Tông lấy Trương Hán Siêu làm Hữu Ty Lang Trung, sảnh Môn hạ rồi sai Ông cùng Đại doãn Kinh sư Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng Triều đại điển và khảo đính bộ Hình Thư để ban hành (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, 1972, t.2, tr.147).

Các đại thần tài giỏi này tuy đã làm ở sảnh rồi nhưng vẫn được kiêm nhiệm các chức vụ khác như Hành khiển Phạm Sư Mạnh, vào năm thứ 5 niên hiệu Đại Trị (1362) được vua Trần Dụ Tông phong thêm chức Tri khu mật viện sự (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, 1972, t.2, tr.165).

Vào năm đầu niên hiệu Thiệu Khánh (1370) vua Trần Nghệ Tông trả ơn cho Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên, phong làm Hành Khiển Tả Tham Tri chính sự (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, 1972, t.2, tr.174).

Quả ấn đồng Ấn sảnh Môn hạ đúc vào năm 1377 trên đây được dùng để đóng vào những văn bản hành chính quan trọng của triều đình, bắt đầu từ đời Trần Phế Đế về sau.

Khi thực hiện phần trưng bày lịch sử triều Trần trong Hệ thống trưng bày chính của Bảo tàng Lịch sử quốc gia, chúng tôi đã đặt quả ấn này cùng sưu tập những đồng tiền mang niên hiệu các vua Trần, để chứng minh cho Bảng sơ đồ Tổ chức chính quyền triều Trần. Đây là một bằng chứng về tổ chức hành chính Trung ương triều Trần. Như thế, quả ấn rõ ràng đã làm sinh động thêm nhiều cho phần trưng bày.


Mặt ấn được đúc nổi 4 chữ theo thể Triện thư “Môn hạ sảnh ấn”


Bản in dấu ấn “ Môn hạ sảnh ấn”

Xung quanh quả ấn đồng này còn có nhiều vấn đề liên quan khá thú vị. Chẳng hạn, tại sao quả ấn lại “lưu lạc” nơi xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh? Phải chăng việc này có liên quan đến sự kiện các cuộc Nam chinh giao tranh với Chiêm Thành, diễn ra nhiều năm trong khoảng 1377 – 1397, mà bi kịch cuộc chiến đã xảy ra, và có thể đoàn xa giá tùy tùng của vua cũng chung số phận để lại ấn báu của vương triều? Dù sao đây cũng là giả thiết cần có thêm chứng cứ.

Sau khi phát hiện quả ấn vào năm 1962, vì tính chất quan trọng của nó nên khi chuyển giao cho Bảo tàng lịch sử Việt Nam lúc đó, ấn được đúc một phiên bản để lưu giữ tại Bảo tàng Hà Tĩnh. Nhân chuyến công tác của Hội đồng giám định tại miền Trung, tháng 5 năm 2013, TS. Phạm Quốc Quân và Tôi đã xem lại phiên bản ấn tại kho Bảo tàng Hà Tĩnh. TS. Quân đã viết bài “Ghi chú cho một bảo vật quốc gia” đăng trên trang Website của Bảo tàng, nói rõ về trường hợp này.

Ngoài quả Ấn sảnh Môn hạ trên đây, thông tin về việc phát hiện những quả ấn thời Trần khác còn rất ít. Năm 1999, trong Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học, GS. Hà Văn Tấn có giới thiệu “Về một quả ấn thời Trần tìm thấy ở Quảng Tây (Trung Quốc)” (Hà Văn Tấn, 2000, tr.655). Đây là quả ấn đồng có quai cao 2,6cm, mặt hình vuông, cạnh 5,0cm x 5,0cm, dày 1,0cm. Mặt ấn đúc nổi 6 chữ theo thể Triện thư, chia 2 dòng, mỗi dòng 3 chữ: Bình Tường thổ châu chi ấn. (Ấn của thổ châu Bình Tường). Theo Nguyễn Công Việt, “Châu Bình Tường chính là Bằng Tường hiện nay” (Nguyễn Công Việt, 2005, tr.76). Mặt lưng, bên phải quai ấn khắc 4 chữ Hán theo thể Chân thư: Đại Trị ngũ niên (năm thứ 5 niên hiệu Đại Trị, 1362). Bên trái quai ấn khắc 5 chữ: Nhâm Dần tứ nguyệt chú (đúc vào tháng 4 năm Nhâm Dần). Với chữ nguyệt, khắc thiếu nét ngang đúng theo quy định chữ kiêng húy thời Trần là cơ sở xác nhận niên đại quả ấn. Đây là quả ấn được tìm thấy ở núi Lộng Lạc, thuộc công xã Nghĩa Vu, huyện Điền Đông, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc vào năm 1983. Quả ấn được GS.Tanaguchi Fusao (Nhật Bản) nghiên cứu và giới thiệu trên tạp san Nghiên cứu niên báo của Sở Nghiên cứu văn hóa Á Phi, trường Đại học Tokyo, số 31, tháng 3, năm 1997, tr.176-188.

Năm 2012, trên Tạp chí Hán Nôm, PGS.TS. Nguyễn Công Việt có giới thiệu quả ấn đồng Tam Giang khẩu tuần kiểm ty ấn (Ấn Ty tuần kiểm khẩu Tam Giang). Ấn này có quai kiểu chuôi vồ dẹt, dưới to trên thu nhỏ. Ấn cao 7,3cm, mặt ấn vuông, cạnh 5,7cm x 5,7cm. Trên mặt ấn đúc nổi 7 chữ Hán theo thể Triện thư, xếp 3 hàng dọc đều nhau từ trên xuống. Mặt lưng ấn, phía bên phải quai có khắc 7 chữ kiểu Chân thư: Tam Giang khẩu tuần kiểm ty ấn (Ấn Ty tuần kiểm khẩu Tam Giang). Cũng theo kết quả khảo cứu của tác giả, niên đại quả ấn được xác định vào khoảng niên hiệu Đại Khánh (1314 – 1323). Và nếu đây là đúng thì quả ấn được coi là ấn hành chính cổ nhất nước ta. (Nguyễn Công Việt, 2012, tr.12-18).

Cho tới nay, những phát hịên về ấn đồng cổ của các triều đại phong kiến Việt Nam trên đất nước ta là rất hiếm, chính vì thế quả ấn đồng “Ấn sảnh Môn hạ” có nội dung rõ ràng nhất, niên đại cụ thể nhất, liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần, mang đầy đủ các tiêu chí, xứng đáng được vinh danh vào Danh mục Bảo vật Quốc gia.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

 

Đề tài khoa học: Hoa văn trên đồ gốm văn hóa Đồng Đậu

Hoa văn gốm là nguồn sử liệu rất quan trọng để nghiên cứu về văn hóa Đồng Đậu (3500 – 2900 năm cách nay). Khi nghiên cứu về ý nghĩa hoa văn gốm cổ, tác giả Hán Văn Khẩn cho rằng “Hoa văn gốm là một đặc trưng quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất để xác định một nền văn hoá khảo cổ” [1] .
Tên đề tài: Hoa văn trên đồ gốm văn hóa Đồng Đậu
Chủ trì: ThS. Bùi Hữu Tiến
Cơ quan công tác: Bảo tàng Nhân học, ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN
Đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu ngày 18 tháng 4 năm 2011.

Tóm tắt đề tài
Hoa văn gốm là nguồn sử liệu rất quan trọng để nghiên cứu về văn hóa Đồng Đậu (3500 – 2900 năm cách nay). Khi nghiên cứu về ý nghĩa hoa văn gốm cổ, tác giả Hán Văn Khẩn cho rằng “Hoa văn gốm là một đặc trưng quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất để xác định một nền văn hoá khảo cổ” [1].
Có thể nói, trong gần 50 năm nghiên cứu về văn hóa Đồng Đậu, việc nghiên cứu đồ gốm nói chung và hoa văn gốm nói riêng ngày càng được chú trọng, quan tâm và đã đạt được một số thành tựu. Ở khía cạnh nghiên cứu hoa văn, các nhà khoa học đã bước đầu làm rõ một số nét đặc trưng về mặt loại hình, kỹ thuật. Có thể nói, những thành tựu này đã góp phần quan trọng để xác định sự tồn tại của văn hóa Đồng Đậu cũng như góp phần làm rõ đặc trưng của văn hóa này. Nhìn chung, việc nghiên cứu về hoa văn gốm Đồng Đậu còn tản mạn, chưa mang tính tổng hợp, toàn diện, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu như việc phân loại hoa văn, sự biến đổi của kỹ thuật trang trí hoa văn, các nét đặc trưng của hoa văn, giá trị của hoa văn gốm.

1. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu 2 nội dung chính:
– Nghiên cứu về mặt loại hình, kỹ thuật, đặc trưng của hoa văn
– Nghiên cứu giá trị của hoa văn
Những nội dung này đã được tác gải trình bày trong chương 1 và 2 của đề tài.

2. Phương pháp nghiên cứu và hướng tiếp cận

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: thống kê, mô tả, loại hình học, nghiên cứu so sánh đồng đại, lịch đại. Đề tài thử tiếp cận vấn đề từ hướng nghiên cứu mới như nghiên cứu biểu tượng.

3. Kết quả nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất: Tập hợp nguồn tư liệu, nghiên cứu về hoa văn Đồng Đậu, từ đó giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu hoa văn Đồng Đậu trong gần 50 năm qua.
Thư hai: Phân loại chi tiết các loại hoa văn. Hoa văn trong văn hóa Đồng Đậu có nhiều loại như văn thừng, văn chải, văn khắc vạch kiểu Phùng Nguyên, văn khuông nhạc, văn khắc vạch kiểu Gò Mun, văn in ô vuông, văn in hình chấm tròn cuống dạ, văn in dấu đan, văn in nan chiếu. Đối với những loại hoa văn chính, tiêu biểu, tác giả đã đi sâu vào phân định các phụ kiểu để thấy được tính đa dạng và đặc điểm của từng loại. Chặng hạn như văn khuông nhạc đã xác định được trên 20 phụ kiểu khác nhau. Trong mỗi phụ kiểu có thể có nhiều đồ án.
Thứ ba: Phân tích làm rõ những biến đổi của kỹ thuật trang trí hoa văn Đồng Đậu, đặc biệt là loại văn khắc vạch và văn in chấm. Đây là những kỹ thuật trang trí đã có nguồn gốc từ văn hoá Phùng Nguyên nhưng đến giai đoạn Đồng Đậu đã có những cải biến. Chính sự thay đổi về mặt kỹ thuật này đã góp phần hình thành lên một phong cách hoa văn mới. Người Việt cổ đã sử dụng những kỹ thuật này để thể hiện những mô típ hoa văn truyền thống của mình.
Thứ tư: Xác định những nét đặc trưng của hoa văn Đồng Đậu.
+ Về mặt loại hình: Trong các loại hoa văn thì văn khuông nhạc, văn in hình hạt, văn đan là 3 loại hoa văn đặc trưng của hoa văn gốm Đồng Đậu. Trong các kiểu văn khuông nhạc Đồng Đậu thì văn chữ S, đường tròn xoăn, văn sóng nước là các kiểu đặc trưng nhất. Nhìn chung, trong trang trí hoa văn, người Đồng Đậu thích dụng các đường cong, có độ mở, không sử dụng các đường góc cạnh như gốm Phùng Nguyên hay gốm Gò Mun. Các đồ án hoa văn mang tính đơn giản, phóng khoáng, ít cầu kỳ. Các đồ án hoa văn mang tính đối xương cũng ít hơn so với giai đoạn Phùng Nguyên. Các họa tiết đệm cũng có nhiều biến đổi theo hướng đơn giản, thường là các đường khắc vạch ngắn, hay các đường tròn xoắn. Chính những khác biệt ở trên tạo lên nét đặc trưng của gốm Đồng Đậu.


+ Về kỹ thuật trang trí: Để tạo ra các loại văn trang trí, người Đồng Đậu chủ yếu sử dụng kỹ thuật khắc vạch, in ấn. Trong đó, kỹ thuật vạch và in ấn bằng que nhiều răng là kỹ thuật đặc trưng của người Đồng Đậu. Họ sử dụng những que có nhiều đầu nhọn hoặc tù để tạo ra các loại văn khuông nhạc, văn in hình hạt. Đây là điểm khác biệt cơ bản của kỹ thuật tạo hoa văn gốm Đồng Đậu so với kỹ thuật tạo hoa văn gốm Phùng Nguyên và Gò Mun. Trong văn hóa Phùng Nguyên hoặc Gò Mun sau này, các đồ án hoa văn điển hình chủ yếu được tạo ra bằng cách sử dụng bút khắc vạch có một hoặc hai đầu nhọn.
+ Về các sắp xếp và trang trí trang trí: Hoa văn trang trí được kết hợp hài hòa với kiểu dáng đồ gốm. Đồ gốm Đồng Đậu thường có bụng nở, thấp, miệng loe cong, bản miệng rông, chân đế thấp hoặc đáy bằng. Vì vậy, hoa văn trang trí chủ yếu được bố trí ở vai, cổ, thành miệng và mặt trong miệng gốm, ít trang trí ở phần chân đế. Việc trang trí hoa văn bên trong miệng gốm là một nét đặc trưng của gốm Đồng Đậu. Trong văn hóa Phùng Nguyên trước đó, hoa văn chủ yếu tập trung ở phần thân và cổ đồ gốm .
Trong văn hóa Đồng Đậu, đồ gốm có đáy bằng khá phổ biến. Do kỹ thuật làm gốm, ở mặt ngoài đáy của những đồ gốm có đáy bằng thường có dấu văn đan. Mặc dù, loại văn này đơn thuần mang tính kỹ thuật, không mang tính trang trí nhưng sự nở rộ của chúng đã góp phàn hình thành lên đặc trưng của hoa văn gốm Đồng Đậu.
Hoa văn gốm Đồng Đậu thường được trang trí theo băng dải nằm ngang quanh miệng, cổ hoặc thân gốm.
Trong phong cách trang trí hoa văn, người thợ gốm Đồng Đậu không sử dụng đơn điệu một kiểu loại hoặc một nhóm hoa văn nào. Họ thường dùng nhiều kiểu phối hợp làm tăng thêm sự phong phú của dạng hình hoa văn. Trong sự phối hợp, họ đã chủ ý xác định văn chủ đạo và văn phụ trợ, văn làm nền, nên đã tôn được cài gì là chủ đạo trong sự phối hợp nhiều kiểu dáng văn khác nhau.
Các mô típ hoa văn gốm Đồng Đậu được bài trí theo các quy luật đối xứng như đối xứng gương, đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến. Những kiểu đối xứng này đã được sử dụng phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Trong khi người Phùng Nguyên thích dụng các loại đối xứng gương và đối xứng trục thì người Đồng Đậu sử dụng phổ biến kiểu đối xứng tịnh tiến.
+ Hoa văn gốm trong mối tương quan với chất liệu gốm
Những hoa văn mang tính mỹ thuật như văn khắc vạch, văn khuông nhạc, văn in ô vuông, chủ yếu trang trí trên gốm chắc, rất hiếm khi trang trí trên gốm xốp.
+ Hoa văn gốm trong mối quan hệ với chức năng, loại hình đồ gốm
Xét về mặt loại hình hiện vật, có thể thấy các loại hình thường được trang trí hoa văn gồm bình, nồi, bát, âu, chạc gốm, dọi xe chỉ, trong đó bình gốm là loại hình được trang trí hoa văn nhiều nhất. Các đồ án hoa văn cầu kỳ, phức tạp thường được người thợ thủ công dành để trang trí trên loại hình hiện vật này.
+ Diễn biến của hoa văn gốm trong quá trình phát triển của văn hóa Đồng Đậu
Các loại hình hoa văn gốm có xu hướng biến đổi khác nhau theo thời gian (ở phương diện loại hình, số lượng – mức độ phổ biến). Có loại xu hướng ngày càng tăng, loại hình ngày càng đa dạng hơn như văn khuông nhạc. Có loại có xu hướng biến đổi ngược lại, tiêu biểu là văn khắc vạch kiểu Phùng Nguyên.
Xu hướng biến đổi của hoa văn gốm phản ánh sự thay đổi về quan điểm thẩm mỹ của con người. Chính sự biến đổi này tạo thành đặc điểm của từng giai đoạn của văn hóa Đồng Đậu, và cũng nhờ đó chúng ta có thể nhận ra và phân chia các giai đoạn của văn hóa Đồng Đậu dễ dàng hơn và chính xác hơn.
Thứ năm: Đi sâu nghiên cứu làm rõ giá trị của hoa văn gốm Đồng Đậu.
+ Hoa văn thể hiện đặc trưng văn hóa của cư dân Đồng Đậu
Hoa văn gốm của văn hóa Đồng Đậu có đặc điểm riêng. Sự đồng nhất của hoa văn trang trí ở mấy chục các địa điểm khảo cổ học khác nhau thuộc văn hoá Đồng Đậu không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, sự đồng quy văn hoá mà thể hiện sự thống nhất cao về văn hoá giữa các thị tộc, bộ lạc trong cộng đồng dân tộc chung. Nó phản ánh mối quan hệ thuân thuộc giữa các thị tộc, bộ lạc. Như vậy, hoa văn gốm đã góp phần để hình thành lên đặc trưng của văn hóa Đồng Đậu, giúp chúng ta phân biệt văn hóa Đồng Đậu với những văn hóa trước và sau nó trong truyền thống văn hoá Tiền Đông Sơn cũng như các văn hoá đồng đại ở khu vực.
+ Hoa văn gốm góp phần phản ánh các hoạt động kinh tế và đời sống tinh thần phong phú của cư dân Đồng Đậu
Khía cạnh kinh tế: Hoa văn thể hiện sự phát triển của nghề làm gốm, nghề đan lát.


Khía cạnh tinh thần: hoa văn phản ánh khiếu thẩm mỹ phong phú của người Đồng Đậu. Một số loại hoa văn của văn hóa Đồng Đậu có thể là biểu tượng của mặt trời như văn chữ S, đường tròn xoắn, đường tròn đồng tâm. Thờ mặt trời là tín ngưỡng phổ biến của cư dân nông nghiệp ở Đông Nam Á.


+ Hoa văn gốm góp phần phản ánh môi trường sống của người Đồng Đậu
Trong các mô típ hoa văn trang trí trên gốm Đồng Đậu thì văn sóng nước rất phổ biến. Văn sóng nước phản ánh môi trường sông nước và ước vọng cầu nước của những cư dân trồng lúa nước.
+ Hoa văn gốm là một trong những cở sở quan trọng để phân chia các giai đoạn phát triển của văn hóa Đồng Đậu.
Trên cơ sở nghiên cứu diễn biến hoa văn gốm ở di tích Thành Dền và Đồng Đậu, kết hợp với các tài liệu địa tầng, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng văn hóa Đồng Đậu có 3 giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn Phùng Nguyên muộn – Đồng Đậu sớm; giai đoạn Đồng Đậu điển hình; giai đoạn Đồng Đậu muộn – Gò Mun sớm.
+ Hoa văn phản ánh mối quan hệ văn hóa.
Nghệ thuật trang trí hoa văn Đồng Đậu là kết quả của quá trình “hỗn dung” văn hoá. Nó được hình thành trên cơ sở kế thừa các yếu tố văn hoá Phùng Nguyên, hội nhập, tiếp thu các yếu tố của nhóm Mả Đống – Gò Con Lợn. Tất cả những yếu tố văn hoá cả cũ và mới khi được kế thừa, hội nhập không phải được bê nguyên si, các đồ án hoa văn được sao chép thuần tuý mà đều được tinh lọc và biến đổi để phù hợp với quan điểm thẩm mỹ mới. Để hình thành nền nghệ thuật Đồng Đậu, thì yếu tố Phùng Nguyên là nền tảng, nòng cốt quan trọng, tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những đóng góp rất to lớn của yếu tố Mả Đống – Gò Con Lợn.
+ Những đóng góp của nghệ thuật trang trí hoa văn giai đoạn Đồng Đậu vào sự phát triển của nghệ thuật trang trí thời Tiền Đông Sơn và Đông Sơn.
Người Đồng Đậu đã kế thừa, bảo lưu những mẫu, mô típ hoa văn truyền thống (như chữ S, đường tròn xoắn, văn khắc vạch cắt nhau, sóng nước,..), phát triển khiếu thẩm mỹ và tri thức về nhịp điệu (các kiểu đối xứng). Mặt khác không ngừng sáng tạo ra những mẫu, mô típ hoa văn và những cách thức, thủ pháp trang trí mới. Trong trang trí, chú trọng trang trí bên trong miệng gốm. Lối trang trí này sau này tiếp tục được người Gò Mun kế thừa và phát triển.
Có thể nói, nghệ thuật trang trí thời Đồng Đậu đã có những đóng góp rất lớn trong việc hình thành lên một nền nghệ thuật Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng.
Hoa văn gốm Đồng Đậu là sản phẩm kết tinh trong quá trình lao động sản xuất của người Việt cổ. Đó chính là nơi phản ánh cuộc sống chân thực và sống động nhất. Vì vậy, đó là kho báu vô giá đối với các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về cuộc sống con người thời xưa.

Nguồn tin: Bảo tàng Nhân học

[1]Hán Văn Khẩn 1983, Xung quanh vấn đề ý nghĩa hoa văn gốm cổ, KCH, số 2, tr: 33.

Các khu lò sản xuất gốm 10 thế kỷ đầu công nguyên

10 thế kỷ đầu Công nguyên là một giai đoạn lịch sử đặc biệt trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đây là giai đoạn mà Việt Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ, là giai đoạn người Việt luôn luôn nổi dậy đấu tranh giành quyền độc lập. Mở đầu giai đoạn này là từ năm 1979 trước Công nguyên khi Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc của An Dương Vương và kết thục vào năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng mở đầu thời độc lập tự chủ.

Vò 10 thế kỷ đầu công nguyên

Ở giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được thành tựu lớn trong sản xuất đồ gốm. Từ gốm đất nung ở nhiệt độ thấp, với sự xuất hiện của gốm sành các khu lò, được nung trong các lò nung có nhiệt độ cao là bước nhảy vọt và gốm tráng men, cốt làm từ caolin, gốm được sản xuất tập trung thành then chốt. Những kỹ thuật làm gốm men và kỹ thuật nung gốm trong lò, kiểu dáng đồ gốm có ảnh hưởng nhất định từ Trung Hoa. Những đồ gốm được làm tại Việt Nam theo phong cách Trung Hoa mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi là gốm Việt – Hán đã được sản xuất trong giai đoạn này. Cùng với nó là một hệ thống lò gốm lần lượt xuất hiện. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện được nhiều khu lò sản xuất gốm cổ ở miền Bắc Việt Nam, tập trung ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Thanh Hóa. Vào thời điểm đó, đây là ba trung tâm sản xuất gốm chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam. Những cuộc khai quật khảo cổ học đặc biệt trở nên quan trọng trong việc làm sáng tỏ các khu lò sản xuất gốm trong các trung tâm này.

Hũ 10 thế kỷ đầu công nguyên

Trung tâm gốm Vĩnh Phúc

Tại đây đã phát hiện được các lò sau:

– Khu lò Thanh Lãng (thuộc xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên): là khu lò rất lớn, các lò nung gốm tập trung thành nhiều cụm lò từ 5-6 lò nung, nằm trên các sườn đồi hoặc gò đất cao ven dòng sông cổ vốn là nhánh của sông Cà Lồ. Phạm vi phân bố trải dài qua nhiều thôn như Minh Lương, Bên Đường và Hồng Hồ. Viện Khảo cổ học đã khai quật 2 khu lò gốm trong số hàng chục lò nung gốm còn lại. Các lò nung gốm đều được đắp bằng đất, dựa vào địa hình tự nhiên của gò đồi. Sản phẩm của các lò gốm ở đây là đồ sành và bát loại to, đáy tròn, trong lòng có các đường cạo men hình tứ giác. Khu lò gốm có niên đại từ cuối thời Lục triều đến đầu thời Đường.

– Khu lò Lũng Ngoại (thuộc xã Lũng Hòa, huyện Yên Lạc): đây cũng là một khu lò lớn, mật độ phân bố của các lò nung ở đây dày đặc, trải dài gần 1 km ven bờ Đông của dòng sông Phan. Khu lò này do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phát hiện và khai quật 1 lò gốm còn nguyên vẹn nhất. Năm 2003, Viện Khảo cổ học tiếp tục khai quật thêm 1 lò nung gốm nữa. Sản phẩm của các lò gốm ở đây là các loại vò sành 4-6 núm, bát, chậu, âu sành và đồ gốm men ngà. Loại bát gốm tráng men ngà tìm được trong lò là loại bát to, đáy gẫy, chân đế đặc, lòng có các đường cạo men hình tứ giác. Khu lò có niên đại khoảng đầu đến giữa thời Đường. Một số địa điểm khảo cổ học ở vùng ven biển Thanh Nghệ, Quảng Ninh cũng đã phát hiện được loại bát này, nhiều khả năng các lò gốm này đã tham gia vào việc buôn bán trong con đường tơ lụa thời Đường đi qua vùng biển Việt Nam. Một số địa điểm trong Hoàng thành Thăng Long như Bắc Môn, Trần Phú cũng tìm được loại bát này.

– Khu lò Đồng Đậu (thị trấn Minh Tân, huyện Yên Lạc): khu lò này nằm ngày dưới chân di chỉ thời đại kim khí Đồng Đậu. Nó được phát hiện ngẫu nhiên trong đợt khai quật di chỉ này. Hiện nay khu lò đã bị phá hủy hoàn toàn. Cấu trúc của lò gốm còn mang ảnh hưởng của lò gốm Nam Trung Quốc. Sản phẩm của lò là gạch múi bưởi in văn ca rô, trám lồng, sóng nước, bát đĩa bán sứ tráng men ngà rất giống với sản phẩm của lò Đại Lai (Bắc Ninh), đặc biệt là sự gần gũi nhau trong các ký hiệu khắc ở đáy bát, đĩa. Khu lò có niên đại khoảng đầu thời Lục triều.

Trung tâm gốm Thanh Hóa

Tại Thanh Hóa có một khu lò nung quy mô rất lớn đã được phát hiện, đó là khu lò Tam Thọ (xã Đông Vinh, huyện Đông Sơn). Khu lò gốm Tam Thọ được Olov Janse phát hiện và khai quật lần đầu tiên vào năm 1939. Trong lần khai quật này, ông đã phát hiện được hàng chục lò nung gốm, và lần đầu tiên chúng ta được biết rằng những đồ gốm Việt – Hán đã được sản xuất tại Việt Nam vào thời Đông Hán và Lục triều. Năm 2000 và 2001 khu lò gốm này được đào thám sát và khai quật lần thứ hai… Kết quả là đã phát hiện được thêm lớp lò thứ ba có niên đại khoảng đầu Công nguyên cùng với hai lớp lò nung gốm có niên đại từ thế kỷ II đến thế kỷ thứ IV. Những đồ sành và đồ gốm men, sản phẩm gốm gia dụng và gốm xây dựng của các lò gốm Tam Thọ được xác định một cách rõ ràng hơn. Trong khu vực Tam Thọ – Văn Vật còn phát hiện được một hệ thống gốm sành Việt nữa có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, cùng một di chỉ thời Trần thế kỷ XIII-XIV. Trong khoảng 4 thế kỷ hoạt động, tuy chỉ có một khu lò nung nhưng trung tâm gốm Thanh Hóa đã có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiêu thụ gốm ở miền đồng bằng Bắc Bộ và vùng Thanh Nghệ. Hầu hết ở các tỉnh thành miền Bắc. Trong các di chỉ và mộ táng thời Đông Hán và đầu thời Lục triều đều tìm được sản phẩm của lò gốm Tam Thọ, trung tâm gốm Thanh Hóa đã mở đầu cho một dòng gốm mới bên cạnh dòng gốm Đông Sơn truyền thống.

Trung tâm gốm Bắc Ninh

Bắc Ninh là một trung tâm lớn với nhiều khu lò gốm như Đại Lai, Luy Lâu, Tam Sơn, Đương Xá.

– Khu lò Đại Lai sản xuất các loại gốm tráng men gia dụng như bát, đĩa, âu, vò, bình… chất liệu bán sứ tiền thân của gốm men ngọc cùng những đồ sành mịn. Niên đại của khu lò kéo dài suốt thời Lục triều. Đây là những lò rồng đầu tiên và sớm nhất được phát hiện ở Việt Nam. Tại đây đã phát hiện được hàng ngàn con kê bát, đĩa – dụng cụ chống dính men trong nung gốm – là một trong những loại con kê gốm cổ nhất được làm bằng chất liệu sành. Nếu như các lò gốm Thanh Lãng, Lũng Ngoại, Tam Thọ cung cấp những đồ đựng Việt – Hán điển hình với số lượng phong phú nhất thì lò Đại Lai lại cung cấp những sản phẩm bát đĩa tráng men điển hình nhất và nhiều nhất thời kỳ này. Những đống đồ gốm phế thải dày trên 2m ở Đại Lai đã cho thấy phần nào quy mô và thời gian sản xuất của khu lò này.

– Khu lò Luy Lâu sản xuất vật liệu xây dựng. Khu lò nằm ngay cạnh thành Luy Lâu thủ phủ thời Đông Hán. Tại đây có hàng chục lò nung xuất lộ. Đó là những lò cóc thời Đường, được bố trí dày đặc tập trung, có thể do chính quyền đô hộ quản lý. Trong các cuộc khai quật thành Luy Lâu, rất nhiều gạch, ngói đã được phát hiện. Nhiều khả năng những vật liệu kiến trúc đó là sản phẩm của các lò nung này.

– Hệ thống lò Đương Xá (xã Vạn An, huyện Yên Phong) là khu vực có nhiều khu lò gốm thuộc nhiều thời đại khác nhau nằm ở bờ phía Đông của sông Ngũ Huyện Khê và sông Cầu. Khu lò Xóm Núi có các lò gốm sản xuất sành thế kỷ IX-X, với các sản phẩm gốm gia dụng như nồi, vò, bát, âu, chậu… Sản phẩm của lò gốm này có mặt ở nhiều vùng thuộc tỉnh Bắc Ninh, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), di chỉ Thái Lai (Vĩnh Phúc). Khu lò Đồng Khống ở xóm Láng tiếp tục truyền thống của các lò gốm Xóm Núi sản xuất đồ sành, đồng thời sản xuất ngói mũi lá, đồ gốm men. Khu lò này có tới hàng chục lò gốm, mật độ phân bố dày đặc. Hai lò gốm trong số đó đã được khai quật vào đầu năm 2004 có niên đại cuối thời Lý đầu thời Trần. Các lò gốm sành tiền thân của làng Thổ Hà nằm trên đất Đương Xá đến chùa Láng có niên đại khoảng đầu thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. Nhiều sản phẩm của các lò gốm ở đây được phát hiện ở vùng ven biển Bắc Việt Nam, trong các khu mộ Mường ở Hòa Bình, mộ cổ ở huyện Lục Yên (Yên Bái), trong di chỉ và mộ táng ở huyện Sóc Sơn, thành Thăng Long (Hà Nội)…

Các lò gốm 10 thế kỷ đầu Công nguyên ở miền Bắc Việt Nam đã kết hợp được truyền thống gốm Đông Sơn với kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến đương thời của Trung Hoa đã sản xuất ra dòng gốm Việt – Hán mang sắc thái bản địa bên cạnh dòng gốm Đông Sơn tồn tại trong các làng Việt cổ. Các khu lò gốm được khảo cổ học phát hiện chắc chắn chỉ là phần nào của những lò gốm đã từng tồn tại ở giai đoạn này, nhưng chỉ chừng đó cũng đã cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển nhất trong việc sản xuất đồ gốm tiên tiến đương thời.

Nguồn tin: Tạp chí cổ vật; Ảnh: Tác giả

Chính quyền phong kiến phương Bắc với 3 chính sách nhằm đồng hóa nước ta

Thời Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, trải qua các triều đại: Triệu, Hán (Tây Hán và Đông Hán), Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường kế tiếp nhau xâm chiếm và đô hộ, biến Âu Lạc thành quận, huyện, đồng hóa dân tộc, bóc lột tàn tệ và triệt để nhân dân ta.

  1. Tổ chức cai trị

Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà chia Âu Lạc thành hai quận: Giao Chỉ (bao gồm vùng Bắc Bộ ngày nay) và Cửu Chân (gồm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), sáp nhập vào nước Nam Việt.

Năm 111 TCN, nhà Hán đánh chiếm Nam Việt và chia nước ta thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.

Nhà Hán vẫn duy trì phương thức cai trị: Dùng người Việt trị người Việt của nhà Triệu.

Sau nhà Hán là các triều đại Ngô, Ngụy, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường cùng với việc thay đổi các đơn vị hành chính là việc tổ chức chặt chẽ hơn bộ máy thống trị của chính quyền đô hộ. Tuy nhiên, việc thiết lập chính quyền đô hộ vẫn chỉ nằm ở các phủ, châu, chưa xuống tới các làng, xã.

  1. Vơ vét, bóc lột tàn bạo nhân dân bản xứ

Dựa vào một tổ chức quan lại, quân đội tương đối chặt chẽ và khá mạnh, chính quyền đô hộ đã ra sức bóc lột và đàn áp nhân dân các châu, quận. Chúng ra sức chiếm đất xây dựng cơ sở kinh tế riêng, thực hiện chính sách đồn điền nhằm giữ đất đai mới chiếm được của nhân dân ta.

Chúng bắt nhân dân ta phải cống nạp, nộp tô thuế và chịu lao dịch cho chính quyền đô hộ. Ngoài ra chúng còn nắm độc quyền sản xuất và mua bán muối và sắt, để bắt nhân dân ta nộp thuế và lệ thuộc chặt chẽ vào chính quyền đô hộ của chúng.

  1. Đồng hóa dân tộc, khủng bố và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta

Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng, tinh thần, ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào nước ta. Tiếng Hán và chữ Hán cũng được chính quyền đô hộ phổ biến ở Giao Châu nhằm làm công cụ thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán.

Bên cạnh đó chúng còn đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục tập quán theo người Hán.

                                     

Về 2 mô hình nhà thời sơ sử (thời dựng nước đầu tiên)

TÊN CỔ VẬT: Mô hình nhà (kiến trúc vật lý)

CHẤT LIỆU: Gốm thô (đất nung)

TẠO HÌNH, ĐIÊU KHẮC, HỘI HỌA: Mô hình nhà là nhà kiểu 2 tầng, có sân, cổng, cầu thang. Cổng có một cửa chính và một cửa phụ, khoảng sân rộng có tường cao, trên các bờ tường có các bộ vì kèo nhưng trang trí ở bên ngoài để tạo độ cứng, vững. Có cầu thang lên nhà, nhà có 2 gian, gian chính cao rộng có 1 cửa, có ngói bằng trên mặt ngói là các bộ vì kèo trang trí bên ngoài. Trong nhà có 1 cửa lách thông xuống gian nhỏ, mái vòm.

TÊN CỔ VẬT: Mô hình nhà chuồng (kiến trúc vật lý)

CHẤT LIỆU: Gốm thô (đất nung)

TẠO HÌNH, ĐIÊU KHẮC, HỘI HỌA: Mô hình nhà chuồng, có một cửa chính, 2 cửa phụ và một cửa lách. Xung quanh tường có các lỗ thoáng, được khắc vạch.

 

                                                                                        

 

Bí mật về loại tiền đặc biệt thời vua Tự Đức

Trong số những loại tiền được đúc dưới thời vua Tự Đức triều Nguyễn, có một loại tiền rất đặc biệt. Tuy nhiên, điều đặc biệt này không phải ở chất liệu kim loại dùng để đúc tiền, không phải theo khuôn mẫu, hình thức mới… mà khác lạ ở chính tên gọi của nó.
Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), giống như các triều vua trước đó, ông cũng cho đúc tiền mang niên hiệu của mình, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ viết: “Tự Đức năm đầu, dụ rằng: Đúc tiền theo niên hiệu mới. Vậy cho theo thể lệ đúc tiền Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị mà đúc tiền hiệu mới là Tự Đức thông bảo, tiền đồng hạng lớn, mỗi đồng nặng 9 phân, tiền đồng hạng nhỏ và tiền kẽm đều mỗi đồng tiền nặng 6 phân”.
Trong thời gian trị vì Tự Đức đã nhiều lần cho đúc đồng “Tự Đức thông bảo”, đồng tiền này có nhiều dạng khác nhau, có đồng ở mặt sau ghi giá trị ấn định của đồng tiền như chữ “lục văn”, để chỉ đồng tiền này ăn sáu đồng tiền kẽm; hoặc các chữ “thất văn”, “lục văn”… Ngoài ra, còn có những loại tiền kẽm được đúc lần đầu vào năm Kỷ Tỵ (1869) đường kính nhỏ, có loại mặt sau để trơn, có loại mặt sau của tiền ghi nơi đúc như: Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên…

Chân dung vua Tự Đức

Tuy nhiên loại tiền đặc biệt của vua Tự Đức được đúc vào tháng 2 năm Tân Dậu (1861), loại tiền này gọi là “Tự Đức bảo sao” có 8 loại, đây là loại tiền đúc để cho người dân tiện lợi mang theo khi đi đường. Cụ thể mặt sau của các đồng này có ghi: 1. Chuẩn thập văn (ăn 10 đồng tiền kẽm), 2. Chuẩn nhất thập văn (ăn 10 đồng tiền kẽm), 3. Chuẩn nhị thập văn (ăn 20 đồng tiền kẽm), 4. Chuẩn tam thập văn (ăn 30 đồng tiền kẽm), 5. Chuẩn tứ thập văn (ăn 40 đồng tiền kẽm), 6. Chuẩn ngũ thập văn (ăn 50 đồng tiền kẽm), 7. Chuẩn lục thập văn (ăn 60 đồng tiền kẽm), 8. Chuẩn đương nhị bách (ăn 200 đồng tiền kẽm).
Các loại tiền chủ yếu được đúc bằng chất liệu đồng, chính bởi vậy mà dần dần “đồng” trở thành tên gọi đơn vị tiền tệ của nước ta cho đến tận ngày nay.
Không rõ lý do gì mà Tự Đức lại đặt tên loại tiền thứ 2 của ông là “Tự Đức bảo sao”, đồng tiền này cũng là đồng tiền kim loại nhưng chữ “sao” lại chỉ dùng để gọi tiền giấy. Từ đời vua Trần Thuận Tông, theo chủ trương của Hồ Quý Ly đã cho in tiền giấy gọi là “Hội sao thông bảo”, tiền này được dùng cho đến khi triều nhà Hồ sụp đổ. Theo Phan Huy Chú viết trong sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: “Giấy sao chỉ là miếng giấy vuông chừng một thước, chỉ đáng giá 5-3 đồng tiền mà đem đổi lấy những vật giá 5-6 trăm đồng của người ta, đã không hợp lý mà lại làm người ta cất giữ, dễ rách nát”.


Đồng tiền Tự Đức bảo sao – Chuẩn tứ thập văn

Như vậy “sao” là cách gọi loại tiền giấy, vậy mà “Tự Đức bảo sao” là tiền đồng chứ không phải là tiền giấy, dù gọi là “sao”. Sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn viết về tiền này như sau: “Đúc sáu hạng tiền đồng, từ hạng tiền một đồng ăn 10 đồng đến hạng tiền một đồng ăn 60 đồng. Mặt đồng tiền khắc bốn chữ Tự Đức bảo sao. Hạng ăn 10 đồng nặng 1 đồng cân 5 phân, hạng ăn 20 đồng nặng 3 đồng cân, hạng ăn 30 đồng nặng 4 đồng cân 5 phân, hạng ăn 40 đồng nặng 6 đồng cân, hạng ăn 50 đồng nặng 7 đồng cân 5 phân, hàng ăn 60 đồng nặng 9 đồng cân”.
Tiền “Tự Đức bảo sao” được đúc nhiều lần ở những năm khác nhau, sách Đại Nam thực lục còn cho biết đồng tiền bảo sao này được đúc nhiều nhất là đồng mặt sau có chữ Chuẩn lục thập văn, một đồng này ngang với 60 đồng tiền kẽm (vừa đúng 1 tiền), thông hành trong dân gian rất tiện lợi nên được đúc nhiều.
Đồng tiền có tên gọi lạ lùng này của vua Tự Đức không chỉ gây ngạc nhiên cho giới nghiên cứu, sưu tầm tiền cổ trong nước mà ngay đến cả người nước ngoài cũng phài ngạc nhiên, tò mò. Một nhà nghiên cứu Tây phương là ông Henry A. Ramsden (1872-1915) trong một tập san viết về tiền tệ đã nói rằng tiền bảo sao của vua Tự Đức là “thứ tiền duy nhất của An Nam bằng kim loại được đúc để tượng trưng cho tiền giấy”.
Ngoài những loại tiền nói trên, Tự Đức còn cho đúc tiền mang niên hiệu của mình bằng chất liệu vàng và bạc, mặt trước vẫn có dòng chữ “Tự Đức thông bảo”, mặt sau mang nhiều hình vẽ, họa tiết khác nhau như hình 5 con dơi (biểu tượng của Ngũ phúc), hình rồng bay (gọi là tiền phi long), hình ba cây: mai, tùng, trúc (biểu tượng của Tam thọ), thậm chí có loại gọi là tiền Vạn thế vĩnh lại khắc cả bài thơ 20 chữ trên lưng tiền…

Nguồn: Kienthuc.net.vn

Giao lưu văn hóa Đại Việt – Chămpa trên cổ vật

Trong tiến trình lịch sử của mình vương quốc Chămpa luôn có những mối quan hệ giao lưu và tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu vực, trong đó có Đại Việt thời Lý – Trần.

Chămpa được thành lập vào thế kỷ thứ II, ban đầu có tên là Lâm Ấp, thế kỷ thứ VII mới đổi thành Chămpa. Buổi đầu kinh đô của vương quốc này được đặt tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam. Nhưng vào giữa thế kỷ thứ VIII, đã được dời xuống phía nam và đặt ở khu vực Phan Rang, Nha Trang ngày nay. Đồng thời lúc này thư tịch cổ không còn chép là Lâm Ấp nữa mà gọi là Hoàn Vương.

Hầu hết các tháp Phật thời Lý – Trần được làm bằng đất nung và có bình đồ hình vuông như tháp Bình Sơn, tháp Phổ Minh là tiếp thu từ văn hóa Chăm. Các tháp Chăm đều có bình đồ hình vuông do ảnh hưởng từ các tháp Tudi của Ấn Độ. Và tháp Chăm chỉ có một cửa vào cũng đã ảnh hưởng đến lối xây dựng chùa Một Cột dưới thời Lý.

Mô hình tháp đất nung thời Lý – Trần có bình đồ hình vuông mang hơi hướng của văn hóa Chăm

Trên những hiện vật gạch ngói úp nóc tạc hình chim uyên ương ở kinh thành Thăng Long chúng ta thấy có những nét phẳng phất giống với ngỗng thần Hamsa trong văn hóa Chăm, phần đầu cánh được xoắn lại tạo nên hình cánh cung giống với đôi cánh của thần điểu Garuda.

Tượng uyên ương trong văn hóa Lý – Trần

Chim thần Garuda trong văn hóa Chăm

Tượng chim Kinnari gốm đất nung trong văn hóa Lý – Trần được lấy nguyên mẫu từ tượng chim Kinnari bằng đá sa thạch trong văn hóa Chăm.

 

Chim Kinnari, chất liệu đá sa thạch trong văn hóa Chăm

Chim Kinnari, chất liệu gốm đất nung thời Lý – Trần

Như vậy, những dấu ấn Chămpa trong kiến trúc, mỹ thuật và tạo hình tại các công trình xây dựng cho thấy văn hóa Chămpa đã ảnh hưởng sâu sắc đến lối sáng tác, tư duy, thẩm mỹ của người Đại Việt thời Lý – Trần. Người Chăm đã mang những nét văn hóa riêng của mình ra Đại Việt, hòa trộn với văn hóa bản địa để làm nên sự tỉ mỉ, chau chuốt của các hiện vật thời Lý – Trần. Các hiện vật tồn tại cho đến ngày nay đã phần nào cho chúng ta thấy rõ điều đó.