Archives

Bộ sưu tập báu vật “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình

Sau hơn 43 năm rong ruổi khắp nơi sưu tầm đồ cổ, hiện ông Đinh Văn Dần,sinh năm 1950, ở phường Bích Đào, (TP Ninh Bình) đang sở hữu hàng nghìn cổ vật quý giá.

Ông Dần, cho biết, trong bộ sưu tập cổ vật của ông có nhiều cổ vật mang tầm bảo vật quốc gia như: Bình, tháp, ấm, bát gốm sứ Lý Hoa nâu(thời nhà Lý); lư hương, ấm gốm thời nhà Mạc; đèn gốm đầu hạc nhà Lý; ấm rượu thời Lý; đèn nhà Trần; ghè thời Minh, đôi nghê thời Lê…

Với ông cổ vật quý không quan trọng được làm bằng chất liệu gì chỉ cần có có giá trị về thời gian, có tính thẩm mỹ cao. Chính vì thế bộ sưu tập cồ vật của ông rất phong phú và đa dạng về chất liệu như: Gốm sứ, đồng, đá, sắt, gỗ, ngọc…

Được biết, ngoài thú sưu tầm cổ vật ông Dần còn nhận sửa chữa, phục chế hoa văn, họa tiết cổ vật để kiếm thêm tiền sưu tầm thêm cổ vật.

Ông Dần chia sẻ: “ Tương lai tôi muốn xây bảo tàng để trưng bày hết những cổ vật mình có và sau này sẽ để lại toàn bộ cho con cháu tôi. Với tôi cổ vật quý là vô giá trị, nó là tinh hoa, là di sản của mỗi thời kỳ đất nước nên tôi muốn sưu tầm, gìn giữ và bảo về cho thế hệ mai sau. Tôi rất mong con cháu tôi sau này sẽ kế thừa thú chơi cổ vật của tôi gìn giữ, phát huy hết giá trị của cổ vật”.

Sau đây mời độc giả cùng chiêm ngưỡng bộ sưu tập cổ vật “siêu khủng” của ông Dần được phóng viên Báo Dân Sinh ghi lại.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 1Tốt nghiệp Đại học cơ điện Thái Nguyên loại ưu nhưng ông Dần không theo nghề mà lại say mê chơi, sưu tầm cổ vật.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 2

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 3Một góc trưng bày cổ vật quý của ông Dần.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 4

“Lọ Mai Bình (Tuyên Đức niên chế) cao 45cm thuộc loại gốm Việt cao cấp thời nhà Minh, được sản xuất, chế tác năm vua Tuyên Đức, đến giờ vẫn lành nguyên vẹn, đầy đủ hoa văn, chữ nghĩa. Ông Dần cho biết đây là món đồ đầu tiên ông mua và hiện tại giá trị quốc tế của nó là khoảng 15 triệu đôla. Hiện tại ông có 3 chiếc bình này.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 5Cận cảnh hoa văn tinh tế của một chiếc lọ Mai Bình.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 6Chiếc bình Lý Hoa nâu là một trong 4 cổ vật quý thuộc dòng gốm sứ thời nhà Lý. Nhiều người trả tiền tỷ nhưng ông không bán. Bình còn nguyên vẹn, họa văn, họa tiết từ 5- 7 tầng rõ nét như: Hoa sen quấn, hoa cúc,  hoa thị, người, phật, quỷ đội cánh sen. Theo lời ông cổ vật thời Lý mang đậm dấu ấn phật giáo vì thời đó đạo phật được tôn xùng và con là quốc giáo.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 7

Trong bộ sưu tầm của ông có nhiều cổ vật tầm cổ vật quốc gia như lư hương men ngọc lam sám thời nhà Mạc, cao khoảng 30 cm, lành tuyệt đối cao. Hoa văn trên lư hương gồm rồng, phương, chim, cánh sen và minh văn, thái cực nó mang ý nghĩa thể hiện sự tâm linh cao quý.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 8Đèn dầu gốm đầu hạc thời nhà Lý là cổ vật ông rất quý và tự hào vì cả nước có vài cái và trên bảo tàng Quốc Tế có một cái nhưng đêu bị sứt, mẻ, hỏng men và xấu không được đẹp bằng của ông.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 9

Chiếc mặt nạ Mo Mường của ông Dần được Unesco dán tem công nhận là di sản văn hóa.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 10

Đôi nghê thời Lê, cao 30cm, thân vảy rồng, mặt sư tử.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 11

Một chiếc bình rượu gốm sứ thời nhà Mạc, men lam, hình cá đâu chim, cao 20cm, rộng khoảng 7cm, trên thân ấm có hoa văn như dải lụa, ngư tảo.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 12Rìu đá cổ.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 13Ông Dần, sở hữu rất nhiều bình vôi thời Lý.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 14Ông Dần tận dụng chiếc phản để bày những cổ vật quý như: Rìu đá, rìu ngọc, dao ngọc, ngọc bội, bát…

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 15Những miếng ngọc bội quý có niên đại hàng nghìn năm từ các thời đại triều đình khác nhau.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 16Sinh ra ở vùng đất có nghề truyền thống chụp ảnh, và từng hành nghề chụp ảnh kiếm sống, ông Dần tự làm cho mình một bức ảnh với tên gọi “Người sưu tầm báu vật”.

Đỗ Đức

Nguồn: http://baodansinh.vn/bo-suu-tap-bau-vat–sieu-khung-cua-dai-gia-ninh-binh-d2088.html

Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa tiếp nối văn hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân- huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, được các cán bộ văn hóa của tỉnh phát hiện năm 1962. Qua 6 lần khai quật đã phát hiện hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, gốm, xương sừng… Nền văn hóa này có niên đại mở đầu vào khoảng thế kỷ XV- XIV trước công nguyên và chấm dứt thế kỷ X-IX trước công nguyên.

Dấu tích Lò – Văn hóa Đồng Đậu

Ở Phú Thọ có một số địa điểm thuộc nền văn hóa này. Đó là: Xóm Rền, Nội Gan- Kinh Kệ, Đồng Đậu con – Tứ Xã- Lâm Thao…Đây là nền văn hóa quan trọng tương ứng với thời đại tiền Hùng Vương ở Việt Nam. Việc phát hiện các di chỉ thuộc nền văn hóa này một lần nữa khẳng định Phú Thọ là một trong những cái nôi của nền văn minh trong lịch sử: văn minh Việt cổ.

Đồ gốm trong văn hóa Đồng Đậu:

Người Đồng Đậu tiếp thu những kỹ thuật, thành tựu của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá và làm gốm thành những sản phẩm bình, bát, nồi vò…nhưng khác biệt là ở chỗ người Đồng Đậu cải tiến trong loại hình đồ gốm miệng loe, bẻ xiên, vát mỏng hay trang trí hoa văn sóng nước bằng dụng cụ nhiều răng được gọi là “bút kẻ khuôn nhạc” trở thành đặc trưng không thể thiếu của văn hóa Đồng Đậu. Hoa văn trên gốm Đồng Đậu chủ yếu trang trí ở cổ hay ở vành mép miệng của đồ gốm.

Miệng bình gốm – văn hóa Đồng Đậu

Một đặc trưng khác của gốm Đồng Đậu khác so với gốm Phùng Nguyên và gốm Gò Mun là gốm Đồng Đậu thường có dấu in đan lóng mốt trong một số loại đồ đựng thuộc loại đáy bằng. Về chất liệu gốm, nếu như gốm Phùng Nguyên có màu đỏ, màu hồng nhạt thì gốm Đồng Đậu có màu xám và có độ nung cao hơn nhưng về cơ bản vẫn mang yếu tố truyền thống là đất sét pha cát và bã thực vật. Trong các di chỉ Đồng Đậu xuất hiện rất phổ biến tượng đất nung: tượng bò, tượng gà, tượng rùa…

Đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu:

Về đồ đá họ cũng biết làm rìu đá, đục đá, mũi lao xương, khuyên tai có mấu, vòng tay bằng đá ngọc nhưng đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu không chau chuốt bằng đá Phùng Nguyên và ở Đồng Đầu đồ đá xuất hiện mũi tên ba cạnh, mặt cắt tam giác hay hạt chuỗi hình “gối quạ”. Qua những lần khai quật tại các di chỉ, các nhà khảo cổ học nhận định rằng công cụ sản xuất đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu có chiều hướng giảm đi và được thay thế bằng đồ đồng.

Truyền thống cư dân vùng Phú Thọ trồng lúa nước có từ thời kỳ Phùng Nguyên thì đến Đồng Đậu một lần nữa lại khẳng định điều này. Nhiều thóc gạo đã được tìm thấy trong nhiều di chỉ và đặc biệt trong di chỉ Đồng Đậu đã tìm thấy dấu vết hạt gạo cháy.

Đồ đồng trong văn hóa Đồng Đậu:

Trong văn hóa Phùng Nguyên khai quật các di chỉ cho thấy xuất hiện nhiều những cục sỉ đồng nhỏ như hạt ngô ở Gò Bông và một số mảnh đồng nhỏ chưa định hình tại Đoan Thượng- …thì đến Đồng Đậu công cụ bằng đồng đạt đến trình độ cao. Một bước phát triển đột biến như là một cuộc cách mạng về luyện kim. Trong nhiều di chỉ phát hiện nồi nấu luyện đồng, lò nung, khuôn đúc các loại đơn hoặc kép. Hàng trăm mảnh khuôn, mảnh nồi nấu đồng, dấu vết của lò nung, nhiều tiêu bản được xem như lõi của khuôn đúc, cùng với các loại công cụ như: rìu xòe cân, giáo, lao, đao, mũi tên hai ngạnh, đũa, búa, lưỡi câu được chế tác hoàn chỉnh.

Đồ đồng – văn hóa Đồng Đậu

Qua 6 lần khai quật tại các di chỉ của Đồng Đậu đã tìm được rất nhiều loại lưỡi câu đồng, điều đó cho thấy cư dân Đồng Đậu là những người đánh cá rất giỏi vì bộ lưỡi câu đồng tìm được với các kỹ thuật phức tạp: từ đúc tạo que, đến gia công rèn nguội, chặt ngạnh, chặt mũi uốn lỗ xỏ dây đã tạo được một sản phẩm hoàn chỉnh như chiếc lưỡi câu ngày nay. Tại một số di chỉ khác của Đồng Đậu tìm được rất nhiều xương răng của các loài cá như: cá quả, cá chép, cá trắm, cá chiên, cá chuối đã chứng tỏ ưu thế về phương thức khai thác thủy sản trong đó có nghề câu cá ở thời kỳ này.

Nông nghiệp Đồng Đậu:

Với một nền nông nghiệp phát triển, kế thừa thành tựu chế tác đá gốm của người Phùng Nguyên cùng với đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đồng đã đánh dấu một bước phát triển của xã hội cư dân Đồng Đậu. Với việc khai thác các di chỉ mộ táng cho ta hiểu biết hơn về tổ chức xã hội cũng như thế giới tinh thần của cư dân Đồng Đậu như khai quật được một mộ táng đơn hay 1 mộ song táng (2 cá thể) dùng đất sét làm nền quan tài.

Dấu tích bếp nấu ăn – Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu được GS Hà Văn Tấn khẳng định:

“Đó là văn hóa của những người luyện kim, chế tác kim loại điêu luyện và lành nghề. Đó là văn hóa của những người thợ gốm tài hoa, tạo tác những khối lượng động vật độc đáo, chế tác được những đồ gốm kích thước lớn, trang trí hoa văn đẹp mang phong cách riêng của thời đại mình đang sống. Và đó cũng là văn hóa của những người biết phát huy, kế thừa những thành quả của cha ông thời Phùng Nguyên để bồi đắp, tạo lập một thế hệ mới phát triển cao hơn, biết chọn điểm nhấn quan trọng, quyết định đến sự tồn vong của cộng đồng là luyện kim và đúc đồng bên cạnh nghề chế tác đá truyền thống….”

Hiện nay tại Bảo tàng Hùng Vương đang trưng bày giới thiệu một số bộ sưu tập hiện vật Đồng Đậu. Cùng với các vấn đề đã được làm sáng tỏ của văn hóa Đồng Đậu, còn rất nhiều câu hỏi mở như: Dấu vết cư trú của cư dân Đồng Đậu, vấn đề cư trú, vấn đề phân chia giai đoạn của nền văn hóa này…đang chờ các bạn tìm hiểu và giải đáp trong tương lai.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/nghien-cuu-suu-tam/400-van-hoa-dong-dau

Văn hóa Phùng Nguyên

Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm.

Phùng Nguyên là tên một làng ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng.

Di chỉ khảo cổ Văn hóa Phùng Nguyên

Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Ở những nơi đây, trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa Phùng Nguyên, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí.

Nồi gốm Phùng Nguyên

Các văn hóa cùng thời kỳ với văn hóa Phùng Nguyên:

Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn có văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam bộ).

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_Ph%C3%B9ng_Nguy%C3%AAn

Về kỹ thuật chế tác công cụ trong văn hóa Phùng Nguyên

Chiếm tỉ lệ chủ yếu trong công cụ sản xuất của cư dân văn hoá Phùng Nguyên vẫn là đồ đá. Tuy nhiên, kĩ thuật chế tác đá của cư dân Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao mà ở giai đoạn trước hay sau đó đều không vượt qua. Hầu hết các loại công cụ và đồ trang sức bằng đá của người Phùng Nguyên đều được mài nhẵn, có kích thước nhỏ nhắn, tinh tế, được chế tác từ các loại đá quí hiếm, có độ rắn cao, màu sắc đẹp. Nếu ở giai đoạn hậu kì đá mới, con người mới biết đến các loại hình kĩ thuật như ghè, đẽo, cưa, khoan, tiện đá… thì đến văn hoá Phùng Nguyên, những kĩ thuật này đã trở nên phổ biến thành thục đến độ tinh vi. Các thao tác kĩ thuật như tiện đá, khoan lỗ và khoan tách lõi đã giúp người Phùng Nguyên tạo ra các loại hình công cụ có hình dáng chính xác và tiết kiệm được nguyên liệu.

Chiếm đa số trong các loại hình công cụ đá Phùng Nguyên là các loại rìu bôn có thiết diện hình tứ giác. Người ta đã tìm thấy số lượng lớn các bôn đá hình tứ giác có lưỡi vát lệch một bên ở các di chỉ Phùng Nguyên. Ngay tại một di chỉ như Gò Bông (Phú Thọ), các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 44 chiếc bôn đá. Phần lớn trong số bôn đá tìm được có kích thước nhỏ, mỏng, dài trung bình từ 1,8 – 2,5cm, rộng 1,5 – 2cm, dày 0,1 – 0,5cm, lưỡi tạo góc 30 – 40 độ, nhiều chiếc dài bằng chiều rộng [1].

Bện cạnh là các loại rìu đá hình tứ giác có kích thước nhỏ, góc lưỡi sắc. Đặc biệt, người ta cũng bắt gặp trong các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên loại rìu đá được chế tác bằng ngọc Nephrit có màu trắng đục, trắng vân hồng hay vân xanh. Loại rìu này kích thước rất nhỏ (dài trung bình 3cm, rộng gần 2cm, dày 0,5cm), có loại còn bé hơn, giống như đồ trang sức của con người. Đó là sản phẩm của đôi bàn tay chế tác đá tài hoa của người Phùng Nguyên bấy giờ.

Ngoài bôn và rìu đá, trong các di chỉ Phùng Nguyên còn tìm thấy nhiều loại hình công cụ khác, như đục đá, cuốc đá, dao đá, liềm đá, cưa đá, mũi khoan đá, mũi lao, mũi giáo, mũi tên đá 2 – 3 cạnh… Những hiện vật này đều được làm ra trong một số công xưởng chế tác đá ở Tràng Kênh, Bãi Tự, Gò Chè,…

Trong một số di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên, người ta còn tìm được những cục đồng nhỏ, gỉ đồng và xỉ đồng. Tại di chỉ Gò Bông, bên cạnh những cục đồng còn tìm thấy xỉ đồng và gỉ đồng ở độ sâu 1,3m. Ở một số địa điểm khác như gò Đồng Xâu, Lũng Hoà, chùa Gio cũng tìm thấy gỉ đồng và mảnh khuôn đúc đồng bằng đất nung. Bằng phương pháp phân tích quang phổ những cục đồng tìm thấy được ở Gò Bông, người ta cho rằng đây là hợp kim đồng thau (gồm đồng, thiếc và một số vết bạc) chứ không phải là dạng đồng đỏ ban đầu.

Việc phát hiện xỉ đồng, gỉ đồng, khuôn đúc đồng bằng đất nung là bằng chứng cho phép chúng ta xác định về sự ra đời của nghề luyện kim đồng thau ở Việt Nam trong giai đoạn phôi thai.

Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa tìm thấy được những đồ đồng nguyên vẹn trong các di chỉ Phùng Nguyên. Việc không có những hiện vật bằng đồng được định hình cho thấy đồ đồng thời bấy giờ còn chiếm tỉ lệ rất ít. Không thể phủ nhận rằng, mặc dù chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên đã bước vào thời đại kim khí nhưng đồ đồng vẫn chưa lấn át được công cụ bằng đá. Đồ đá vẫn chiếm tỉ lệ chủ yếu (92%) và là công cụ chủ đạo trong đời sống sản xuất – kinh tế của người Phùng Nguyên [2].

Nguồn: bachkhoatrithuc.vn

Mai Pha (Lạng Sơn) – nền văn hóa mang đậm giá trị nghệ thuật đặc sắc

LSO-Kế thừa Văn hóa Bắc Sơn là Văn hóa Mai Pha; cư dân của văn hóa Mai Pha thuộc hậu kỳ đá mới và tồn tại trong khung niên đại từ 5000 đến 3500 năm cách ngày nay. Văn hóa Mai Pha được gọi theo tên của di chỉ hang Mai Pha, nằm trong một núi đá nhỏ đơn độc giữa thung lũng ở phía Nam xã Mai Pha, tên ngọn núi chứa di chỉ hang Mai Pha theo tiếng địa phương là núi Phjia Nùn có nghĩa là Núi Tuyết. Di chỉ này có mối liên hệ mật thiết với núi Phia Điểm (Di chỉ khảo cổ học (KCH) phía Nam thành phố Lạng Sơn đã khai quật năm 1998).
Di chỉ KCH Mai Pha đã được nhiều nhà KCH, sử học tới đây khảo sát nhiều lần. Lần đầu do ông Retíp (một chủ đồn điền trồng chè của Pháp tại Lạng Sơn vào những năm 1920 do di chỉ nằm trong khu vực đồn điền chè của ông) đã khảo sát nhẹ lớp mặt hang và đã thu thập được một số di vật bằng gốm (bát bồng chân đế cao, âu gốm,…) cùng một số công cụ bằng đá (rìu đá, mảnh tước,…). Đến những năm sau này (năm 1921; 1923) thì có hai nhà sử học và nhà địa chất học người Pháp là H.Mansuy và M.Colani cũng đã tới đây khảo sát và đào thám nhỏ lại tại hang này và cũng đã thu thập được một số công cụ đá, gốm (giống như di vật của ông Retíp đã khảo sát và thu thập trước đó). Đến năm 1995 Bảo tàng Tổng hợp tỉnh tiếp tục khảo sát và đào thám sát hang này kết quả thu được rất khả quan. Năm 1996 địa chỉ di chỉ hang Mai Pha chính thức được khai quật KCH. Sau hơn 1 tháng khai quật, kết quả thu được rất tốt gồm: 123 hiện vật bằng đá, trong đó có 70 rìu, bôn, đục, bàn mài bằng đá và 12 đồ trang sức bằng đá như: vòng tay, khuyên tai và 23 hiện vật bằng xương cùng các đồ trang sức khác. Cũng tại đây đã phát hiện được dấu tích mộ kè đá; mộ vò (loại mộ được xếp chèn xung quanh bằng những chiếc bát gốm) cùng với xương bị đốt cháy, quanh khu vực di chỉ phát hiện được 5 bếp cùng nhiều mẫu tro, than, xương, vỏ ốc bị đốt cháy,…
Qua dấu tích của bếp lửa đã thể hiện rõ cư dân Mai Pha đã biết ăn chín, uống sôi (thông qua các loại đồ đựng bằng gốm như: bát bồng, nồi miệng loe,…) cùng rất nhiều các mảnh vỡ của gốm vương vãi khắp trong di chỉ, điều đó cho thấy lúc này đã có sự xuất hiện của tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hóa.
Cư dân văn hóa Mai Pha về kỹ thuật chế tác lúc này đã phát triển và kế thừa từ cư dân văn hóa Bắc Sơn, tuy nhiên cuộc sống của họ còn rất khó khăn và nơi cư trú của họ chủ yếu vẫn là trong các hang động và mái đá. Về cộng đồng xã hội lúc này chưa phát triển, họ sống quần cư tạo thành nhóm người hoặc tập thể hay bộ lạc, cuộc sống còn ăn hang ở hốc nhưng họ đã biết cảm thụ về nghệ thuật và có một cảm nhận nhất định về nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật trang trí. Về nghệ thuật tạo hình cư dân Mai Pha đã làm thay đổi hình dáng vật thể từ những hòn đá đơn thuần qua chế tác đã tạo thành những chiếc rìu rất đẹp như: rìu mài lưỡi, rìu tứ giác, rìu có vai,… Không những thế mà cư dân Mai Pha còn biết tạo ra một vật thể mới từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên đó là đồ gốm như: nồi, âu, bình, bát,… (đặc biệt là bát bồng chân đế cao). Chất liệu chủ yếu của gốm văn hóa Mai Pha là khá phổ biến và phong phú, hầu hết đều được làm từ đất sét. Đa số gốm văn hóa Mai Pha có màu gạch đỏ, một số có màu đen (do ám khói khi nung hoặc đun nấu) cũng có một số mảnh đen bóng có lẽ do được tạo bởi một loại nhựa từ vỏ cây hoặc một chất keo nào đó. Phần lớn chân đế của gốm Mai Pha là được trang trí nhiều nhất, còn phần thân thì chỉ được trang trí nhẹ như văn thừng trải, văn thừng mịn và văn thừng thô, cũng có loại để trơn không trang trí. Gốm khắc vạch kết hợp chỗ lỗ thủng ở chân đế bát bồng là nét nổi bật nhất trong nghệ thuật chạm khắc và trang trí của gốm Mai Pha. Ngoài việc trang trí hoa văn trên gốm Mai Pha, cư dân văn hóa Mai Pha còn biết chế tác các đồ dùng, đồ trang sức, công cụ lao động sản xuất và vũ khí từ nhiều chất liệu khác nhau như: đá, xương, mảnh vỏ trai,…
Thông qua nền văn hóa Mai Pha và những hiện vật, di vật thu thập được tại di chỉ Mai Pha có thể khẳng định người tiền sử Mai Pha đã có những cảm nhận về mỹ thuật từ rất sớm, từ mỹ thuật chạm khắc cho đến mỹ thuật tạo hình. Họ đã biết tạo tác ra các loại công cụ sản xuất, đồ trang sức,… bằng đủ mọi chất liệu đạt được đến trình độ cao. Đồng thời họ đã biết bảo lưu và sáng tạo những họa tiết, hoa văn trên đồ dùng và chế tác ra những công cụ, đồ trang sức đẹp hơn, thẩm mỹ hơn.
Nguồn: http://baolangson.vn/tin-bai/Van-hoa-xa-hoi/van-hoa-mai-pha-nen-van-hoa-mang-dam-gia-tri-van-hoa–nghe-thuat-dac-sac/30-30-25692; covatvietnam.info chỉnh sửa

Bàu Tró – di chỉ truyền kỳ

(QBĐT) – Nằm gọn giữa lòng động cát cao sát phía bắc cửa biển Nhật Lệ, Bàu Tró có phong cảnh hữu tình, tĩnh lặng,… Không chỉ là hồ nước ngọt cung cấp nguồn nước sạch cho nhân dân thành phố Đồng Hới bấy lâu, Bàu Tró còn là nơi tồn tại những dấu tích cư trú và sinh sống của người nguyên thủy thời hậu kỳ đồ đá. Với ý nghĩa khoa học to lớn của Bàu Tró, các nhà nghiên cứu đã lấy tên di chỉ này để đặt tên cho một loại hình văn hóa tiêu biểu của  miền Trung, đó là “Văn hóa Bàu Tró”.

Bàu Tró (thuộc địa phận phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới ngày nay) tương truyền là bàu nước ngọt sạch nhất, sạch hơn nước giếng của người dân trong vùng. Khi chưa có nhà máy nước, người dân Đồng Hới thường uống nước Bảo Ninh chở sang. Nơi đây hoang vắng, chưa có dân cư và là nơi có miếu Long Vương, thờ thần Hà Bá nổi tiếng linh thiêng, hồ được giữ sạch sẽ, người dân chỉ đến đây lấy nước về dùng vào việc cúng giỗ chứ ít khi lấy nước Bàu Tró về dùng hàng ngày. Hiện nay, Bàu Tró không còn cảnh hoang vu, từ những động cát làm thành trì cho hồ đã có một phường dân cư sinh sống.

Mùa hè năm 1923, nhà khảo cổ học người Pháp Etienne Pette đã đến Bàu Tró khai quật một gò cát cạnh hồ và đã phát hiện có dấu vết của người xưa. Và tên gọi: Bàu Tró, một di chỉ của người Việt cổ cũng bắt nguồn từ đó. Nhà khảo cổ học Etienne Pette đã khẳng định người nguyên thủy đã đến cư trú quanh hồ Bàu Tró từ ngàn xưa và đã để lại dấu tích từ trong lòng cát. Những hiện vật thu được từ di chỉ khảo cổ học này hiện còn lưu trữ tại Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam gồm: 46 rìu đá, 140 mảnh tước, 2 hòn đá bằng thạch anh, 1 dụng cụ đá dùng để ép, 14 bàn nghiền hạt, 1 chì lưới, một đốt xương sống cá và vỏ sò, mảnh gốm…

Nhà khảo cổ cho rằng người tiền sử đã để lại các dụng cụ và rất nhiều vỏ ốc là di tích các bữa ăn của họ. Khi nền văn hóa của người nguyên thủy đã chuyển xuống ven biển, ven sông có nghĩa là họ không còn thích nghi ở trong hang động nữa. Nền văn hóa đồ đá mới phân bố khắp nơi trên đất Quảng Bình, từ bắc vào nam, từ núi rừng xuống đồng bằng. Di chỉ Bàu Tró còn khẳng định thêm một điều bí ẩn là ở thời hậu kỳ đồ đá mới, người tiền sử Bàu Tró rất thạo nghề đánh cá biển và việc tìm thấy những mũi tên bằng xương cá chứng tỏ nghề săn bắn lúc này cũng khá phát triển.

Toàn cảnh Bàu Tró nhìn từ trên cao.
Toàn cảnh Bàu Tró nhìn từ trên cao.

Cũng tại Bàu Tró, mùa xuân năm 1980, Khoa Khảo cổ Trường đại học Tổng hợp Huế (nay là Trường đại học Khoa học Huế) lại khai quật di chỉ này một lần nữa. Địa điểm khai quật nằm phía tây nam Bàu Tró, cách hố khai quật của nhà khảo cổ học Etienne Pette hơn 100m về phía tây. Hiện vật thu được gồm: 31 rìu bôn đá, 17 bàn mài, 7 chày nghiền, 3 mũi nhọn, 1 vòng, 2 phiến tước, nhiều cục thổ hoàng bị mài vẹt từ nhiều phía, 11.972 mảnh vỡ đồ gốm của nồi, niêu, bình, vò, bát, đĩa… được trang trí bằng hoa văn đấu thừng, hoa văn khắc vạch có màu đỏ, màu đen ánh chì. Và điều vô cùng lý thú là nếu năm 1923, nhà khảo cổ  Etienne Pette chỉ tìm thấy loại di chỉ cồn Cò Điệp thì nay Khoa Khảo cổ Trường đại học Tổng hợp Huế tìm thấy loại di chỉ mới đó là di chỉ Cồn Đất tại Bàu Tró. Với ý nghĩa khoa học to lớn của di chỉ Bàu Tró, các nhà nghiên cứu đã lấy tên này để đặt tên cho nền văn hóa hậu kỳ đá mới, gồm các di chỉ phân bố vùng ven biển Nghệ – Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế là “Văn hóa Bàu Tró”.

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, Văn hóa Bàu Tró là nền văn hóa tiêu biểu của miền Trung, là một trong những cội nguồn nảy sinh văn hóa Đông Sơn phía Bắc và văn hóa Sa Huỳnh ở phía Nam. Điều này còn chứng tỏ cư dân tiền sử Quảng Bình có sự giao lưu vùng rộng lớn từ Bắc đến Nam Trung bộ, phát triển liên tục từ thời kỳ đồ đá đến đồ đồng, đồ sắt.

Xung quanh 2 từ Bàu Tró, cho đến nay vẫn là một vấn đề bàn cãi chưa ngã ngũ về ngôn ngữ và lịch sử. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện Bàu Tró là di chỉ giàu về đồ gốm và giỏi về nghề gốm, nhưng các nhà ngôn ngữ học thì đoán định Bàu Tró là bàu lúa. Thêm nữa, theo truyện kể trong dân gian Đồng Hới thì Bàu Tró rất sâu, sâu không có đáy vì có người đã thử bơi bè ra giữa lòng hồ, rồi buộc đá vào dây thả xuống đo chiều sâu nhưng thả mấy cũng không thấy dây chùng lại. Lại có chuyện ly kỳ khó tin rằng, sau một trận lũ rất lớn, khi nước rút xuống có người đã lượm được những quả bưởi của vùng Trốôc Vực (Lệ Thủy) tại hai bên bờ Bàu Tró. Câu chuyện Bàu Tró đáy ngầm thông với Trôốc Vực cũng bắt nguồn từ đó.

Cùng với những di chỉ và truyền kỳ, Bàu Tró nay được Nhà máy cấp nước Đồng Hới quản lý (trực thuộc Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Quảng Bình) có công suất thiết kế cung cấp 9.000 m3 nước/ngày đêm. Hồ Bàu Tró cùng với hồ Phú Vinh cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân TP.Đồng Hới và một số xã, thị trấn của huyện Quảng Ninh. Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay, hồ Bàu Tró chỉ được khai thác cầm chừng với công suất 3.000m3 nước/ngày đêm (phục vụ cung cấp nước sinh hoạt cho khoảng 20% dân cư TP.Đồng Hới, số còn lại đều lấy nước từ hồ Phú Vinh).

Theo ông Nguyễn Văn Dũng, Trưởng phòng Kế hoạch-Kỹ thuật, Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Quảng Bình cho biết: Sở dĩ Công ty chỉ khai thác với công suất cầm chừng như vậy là để bảo vệ Bàu Tró, di chỉ của người Việt cổ. Hồ Bàu Tró nằm sát biển, chất lượng nguồn nước có giảm so với trước đây do ô nhiễm môi trường từ quá trình đô thị hóa. Nếu khai thác hết công suất thì khả năng xâm nhập nước mặn vào hồ rất cao. Hiện tại, công nhân vận hành trạm bơm nước Bàu Tró vẫn thường xuyên theo dõi sự biến động của mực nước trong hồ để điều chỉnh chế độ khai thác hợp lý.

Cho dù là những di chỉ với những câu chuyện kỳ bí hay là hồ nước ngọt hàng ngày cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân TP. Đồng Hới thì Bàu Tró vẫn là địa danh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, rất cần được bảo vệ một cách khoa học trước nguy cơ bị ô nhiễm ngày càng tăng trong tiến trình đô thị hóa hiện nay.

Nguồn: http://baoquangbinh.vn/dat-va-nguoi-quang-binh/201402/bau-tro-di-chi-truyen-ky-2113039/

Văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình)

Văn hoá Bàu Tró thuộc thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 5.000 – 4.500 năm. Hơn 20 di tích thuộc văn hoá Bàu Tró đã được phát hiện và nghiên cứu, chúng là những di tích cồn sò, cồn cát, cồn đất, phân bố dọc ven biển các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.

Hiện vật đá bao gồm rìu, bôn, cuốc, dao, dao cưa, mũi khoan, chày, bàn nghiền, hòn ghè, bàn mài, giáo, đồ trang sức, phác vật và mảnh tước. Đặc biệt rìu, bôn, cuốc là những công cụ sản xuất quan trọng nhất đều được mài toàn thân và rìu bôn có vai là công cụ đá tiêu biểu nhất của văn hoá Bàu Tró. Đây là đặc trưng quan trọng phân biệt giữa văn hoá Bàu Tró với các văn hoá đá mới khác.

Ngoài hiện vật đá, đồ gốm khá phong phú và đa dạng, bao gồm 3 loại khác nhau: gốm đáy nhọn văn chải 2 mặt, gốm đáy tròn văn thừng, gốm đáy tròn hoặc có chân đế trang trí văn khắc vạch trên nền thừng kết hợp với tô màu đỏ. Nhìn chung, văn hoá Bàu Tró đã đạt đến trình độ chế tác đá cao và làm gốm bằng bàn xoay, kiếm sống bằng thu lượm, săn bắn (bắt), đánh cá, làm nông nghiệp và chăn nuôi.

Văn hoá Bàu Tró phát sinh từ văn hoá Quỳnh Văn lên, người Bàu Tró cũng đã mở rộng giao lưu với người Hạ Long và Hoa Lộc ở phía Bắc, với cư dân Xóm Cồn ở phía Nam và với cư dân Tây Nghệ An và Quảng Bình.

Nguồn: http://baotangnhanhoc.org/vi/gioi-thieu/suu-tap-hien-vat-va-mau-vat/37-vn-hoa-bau-tro.html

Văn hóa Hạ Long giai đoạn hậu kỳ đồ đá mới

Nổi tiếng là một trong những nền văn hóa tiền sử được biết đến sớm nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á, văn hóa Hạ Long đã được các nhà khảo cổ và địa chất học tìm ra và đặt tên từ những năm 1930.

 

Học giả người Thụy Điển J.G. Anderson đã nghiên cứu nhiều hang động trên quần đảo Bái Tử Long và tổng kết bằng công trình được công bố trên tạp chí Bảo tàng cổ vật Viễn Đông với tên gọi: Nghiên cứu khảo cổ học trên vùng quần đảo Bái Tử Long. Ông đã tìm thấy một số địa điểm thời tiền sử có dấu vết của con người và nhiều công cụ. Ông chọn một trong số đó để khai quật và đặt tên là Danh Do La. Đây là địa điểm văn hóa Hạ Long đầu tiên được khai quật và nền văn hóa mang tên vịnh biển đẹp nhất nước ta cũng nổi danh từ đó.

Lần theo bước chân của Anderson, các nhà khảo cổ Việt Nam biết được Danh Do La chính là địa điểm khảo cổ Ngọc Vừng, nằm trên đảo Ngọc Vừng thuộc huyện đảo Vân Đồn, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 34 km. Ngày nay, du khách đến đảo hết sức thuận tiện. Trên đảo không những là nơi cách đây gần 4000 năm con người tiền sử đã cư trú mà còn có các di tích lịch sử như một trong những bến cảng xưa sầm uất của hệ thống thương cảng Vân Đồn buôn bán khắp một vùng Đông Bắc Việt Nam, nam Trung Quốc, các nước Đông Nam Á cổ đại và miền Tây Ấn Độ, di tích thành nhà Mạc, nhà Nguyễn. Người tiền sử chọn Ngọc Vừng là nơi cư trú phải chăng còn do sơn thủy hữu tình: có núi Vạn Xuân, có bãi cát trắng chạy dài hàng cây số. Cư dân trên đảo còn có nghề mò ngọc trai lâu đời, nên tên đảo cũng là Ngọc Vừng (đảo ngọc bừng sáng). Nghề mò ngọc trai giờ đã hiếm gặp nhưng du khách có thể tham quan những cơ sở nuôi trai lấy ngọc ngay trên đảo.

Bà M.Colani, nhà nữ khảo cổ người Pháp cũng gắn bó với văn hóa Hạ Long. Bà đã công bố tác phẩm “Những phát hiện thời tiền sử ở Hạ Long” đăng trong tạp chí của Viện nghiên cứu nhân học Đông Dương từ năm 1938.

Kể từ những phát hiện đầu tiên của các học giả Phương Tây đến nay đã hơn 70 năm, việc nghiên cứu về văn hóa Hạ Long từ một nhóm di tích nay đã nghiên cứu và khai quật được hơn 30 di tích. Bức tranh toàn cảnh của nền văn hóa này đã được dựng lại khá đầy đủ.

Văn hóa Hạ Long có niên đại vào khoảng 4000 – 3500 năm trước và được các nhà khảo cổ học xếp vào giai đoạn hậu kỳ thời đại đồ đá mới. Người tiền sử đã chọn một vùng biển đảo Đông Bắc Việt Nam làm nơi cư trú, nơi có một nguồn thức ăn hải sản vô tận, lại có cả bãi biển và hang động làm nơi ở thuận tiện. Địa bàn cư trú của người cổ Hạ Long là một vùng biển nông, độ sâu trung bình khoảng 10 mét, có tới 20 luồng lạch từ vùng vịnh thông ra đại dương, thuận tiện cho việc tránh gió và ra khơi đánh bắt xa bờ. Các nhà khảo cổ đã tìm được trong tầng văn hóa có những xương cá to, có thể họ đã bắt được cá nặng hàng tạ. Họ còn biết đánh cá bằng lưới mà hiện vật còn lại là những hòn chì lưới to. Ngoài cá, nhiều loại hải sản khác cũng được khai thác, nhiều vỏ nhuyễn thể còn được tìm thấy.

Công cụ đá được sử dụng trong văn hóa Hạ Long

Không những đi biển giỏi, người Hạ Long cũng là người biết làm nông nghiệp. Bằng chứng là các công cụ đá như cuốc, rìu, bôn đã có mặt. Họ tự chế tác công cụ đá bằng các kỹ thuật mài, cưa, khoan, đánh bóng,… Họ cũng đã biết làm đồ gốm bằng cách nhào đất với vỏ nhuyễn thể giã nhỏ và nung lên, làm đẹp thêm cho gốm bằng cách khắc vẽ các hoa văn hình học. Nghề trồng cây lấy sợi để đan lưới cũng là nghề thủ công phổ biến. Nghề mộc khá phát triển cùng với việc đóng thuyền bè đi biển. Việc phát hiện ra đồ gốm và tầng văn hóa dày dặn đã chứng minh họ đã là những người định cư lâu dài và đã lập làng xóm.

Người cổ Hạ Long còn biết tự làm đẹp. Họ ưa chế tạo đồ trang sức từ vỏ ốc biển như vỏ ốc cypraea, được mài thủng lưng để xâu dây đeo quanh cổ, dùng xương sống cá và vỏ nhuyễn thể làm hạt chuỗi, vòng tay. Họ cũng làm vòng đeo tay bằng cách khoan, tiện, mài những cục đá. Những mũi khoan đá tìm được khá nhiều đã nói lên cách làm vòng tay công phu. Những bàn mài ở văn hóa Hạ Long có những nét riêng biệt khi để lại bề mặt dấu vết mài hình lòng máng mà các nhà khoa học thường gọi là “dấu Hạ Long”, đặc trưng ít gặp ở các nền văn hóa khác.

Đồ trang sức bằng vỏ sò

Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm được di cốt của chính chủ nhân văn hóa Hạ Long. Các xương cốt cho thấy họ thuộc đại chủng Mongoloid da vàng, nhưng vẫn còn có yếu tố Australoid hòa trộn. Chính những tộc người cổ của Hạ Long đã góp một phần vào sự hình thành của dân tộc Việt hiện đại ngày nay. Trước khi người Hạ Long sinh sống nơi đây, trên vùng biển Đông Bắc nước ta đã có cư dân của các nền văn hóa sớm hơn sinh tụ như nền văn hóa Soi Nhụ, Cái Bèo.

Ngày nay, du khách trong và ngoài nước có thể đến vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và nhiều hòn đảo khác để nghe về một vùng truyền thuyết về Rồng (một trong 4 con vật tứ linh trong tâm thức người Việt) đã từng bay xuống mảnh đất này. Họ cũng thấy được trong cảnh sắc nước non của một địa danh di sản thế giới và đến thăm các địa điểm khảo cổ thuộc văn hóa Hạ Long còn để lại ngay trong hang động và lòng đất của các đảo, tận mắt chứng kiến các di vật còn nằm trong hơn 30 di tích, phần lớn tập trung quanh thành phố Hạ Long và khu du lịch Tuần Châu nổi tiếng.

Điểm kết của chuyến du ngoạn vịnh Hạ Long, có một địa chỉ cần dừng lại lâu hơn, chính là nhà Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Ninh, nơi trưng bày khá đầy đủ hiện vật của văn hóa Hạ Long. Bảo tàng ở ngay trung tâm thành phố Hạ Long, khá tiện lợi cho du khách tham quan.

Nguồn: http://www.vntravellive.com/news/van-hoa-ha-long-giai-doan-hau-ky-thoi-dai-do-da-moi-1072.html

Về những chiếc “Dấu Bắc Sơn”: Chức năng và niên đại

“Dấu Bắc Sơn” là tên gọi của một loại bàn mài được phát hiện đầu tiên trong các di tích hang động thuộc thời đại đồ đá ở dải núi đá vôi thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Tên gọi này do hai nhà khảo cổ học người Pháp là H. Mansuy và M. Colani xác định khi họ nghiên cứu các di tích thuộc văn hóa Bắc Sơn – một văn hóa khảo cổ có niên đại cách ngày nay ước chừng 11.000 – 7.000 năm. Tên gọi “Văn hóa Bắc Sơn” và “Dấu Bắc Sơn” là do họ xác lập.

Về niên đại, Văn hóa Bắc Sơn có thời gian cuối của nó ở vào sơ kỳ thời đại đồ đá mới khoảng 7.000 năm với sự xuất hiện của công cụ cuội mài lưỡi là có thể tin được, song với những chiếc “Dấu Bắc Sơn” cho đến nay vẫn là một tồn nghi chưa có lời giải đáp đầy đủ. Tuy nhiên, giới khảo cổ học vẫn coi “Dấu Bắc Sơn” là tiêu chí chỉ thị tính chất văn hóa và nếu di tích khảo cổ học nào tìm thấy loại di vật này thường được họ xếp ngay vào văn hóa Bắc Sơn. Vậy có đích thực là những chiếc “Dấu Bắc Sơn” là tiêu chí xác định những di chỉ khảo cổ chứa đựng chúng thuộc thời đại đồ đá?

Trong cuộc khai quật hang Ngườm Vài (Thông Nông, Cao Bằng), một di chỉ được xếp vào Văn hóa Bắc Sơn, cũng tìm thấy loại di vật này tuy số lượng so với tổng số di vật đá không nhiều (53/2.040). Cùng với “Dấu Bắc Sơn”, tại đây còn tìm được khá nhiều mảnh gốm vỡ thuộc thời kim khí, mảnh vỡ của công cụ đá mài, chì lưới đánh cá (chế tạo bằng cách khoan – mài), đá có vết và nhiều viên cuội nhỏ có vết mài.

Quan sát “Dấu Bắc Sơn”, ta sẽ thấy chúng là một loại bàn mài dùng vào việc chế tác hay làm sắc rìa lưỡi của một loại công cụ khác có độ cứng cao hơn chúng. Về chất liệu, các “Dấu Bắc Sơn” thường là những viên cuội mỏng dẹt, dài chủ yếu là cuội sét kết hay cát kết mịn có độ cứng không cao lắm, tuy nhiên cũng có những chiếc làm bằng cuội silic hoặc bán quartz có độ cứng cao. Vết mài trên các “Dấu Bắc Sơn” có hình cong khum, một số ít có hình chữ V ngược. Điều đó cho biết loại công cụ được mài có rìa lưỡi vũm với kích thước nhỏ bởi các vết mài chỉ rộng từ 0,5cm đến xấp xỉ 1,0cm, thông thường chỉ trong khoảng 0,5 – 0,7cm. Vết mài trên di vật này thẳng, nhẵn bóng, rìa cạnh của vết mài (kể cả ở hai đầu) sắc gọn. Chất liệu và dấu vết kỹ thuật trên di vật cho hay chúng là những chiếc bàn mài đánh bóng hay “lấy lưỡi” của vật được mài, tức là chúng chỉ dùng vào việc làm tăng độ sắc bén của rìa lưỡi công cụ mà thôi và loại công cụ được mài có độ cứng cao hơn những chiếc “Dấu Bắc Sơn” rất nhiều.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có loại di vật nào tìm thấy trong các hang động thuộc Văn hóa Bắc Sơn có rìa lưỡi vũm tương đương với những chiếc “Dấu Bắc Sơn” đã được phát hiện. Một số người cho những chiếc bàn mài này dùng để mài công cụ xương bởi chỉ có công cụ làm bằng xương mới có hình cong khum mà thôi. Song loại xương có thể sử dụng làm công cụ lại thường là xương ống của động vật lớn như trâu, bò hay hươu, nai nên vết mài vũm nếu có cũng lớn hơn vết mài trên các “Dấu Bắc Sơn” nhiều lần (chỉ có xương ống chân chim hoặc gà mới có kích thước gần tương đương với vết mài của “Dấu Bắc Sơn”). Nên, theo chúng tôi, ý kiến trên khó mà đứng vững được.

Từ dấu vết kỹ thuật còn lưu lại trên các “Dấu Bắc Sơn”, chúng tôi cho rằng chúng được dùng để mài công cụ kim loại. Bởi chỉ có kim loại mới có thể để lại vết mài sắc gọn, nhẵn bóng trên loại di vật này được mà thôi. Và, những chiếc “Dấu Bắc Sơn” ở Ngườm Vài cũng như trong các di chỉ chứa chúng khác không phải là loại công cụ gia công của thời đại đồ đá mà là sản phẩm của thời kim khí. Do vậy, “Dấu Bắc Sơn”, cuội nhỏ có vết mài là những tiêu chí có thể sử dụng để xếp những di tích khảo cổ chứa chúng vào thời kim khí.

(Tác giả: Đào Quý Cảnh)

Nguồn: http://khaocohoc.gov.vn/ve-nhung-chiec-dau-bac-son-chuc-nang-va-nien-dai

 

Văn hóa Bắc Sơn

Văn hóa Bắc Sơn thuộc sơ kỳ thời đại đá mới của người nguyên thủy nảy sinh từ trong lòng văn hóa Hòa Bình.

Image

Văn hóa Bắc Sơn thuộc sơ kỳ thời đại đá mới của người nguyên thủy nảy sinh từ trong lòng văn hóa Hòa Bình. Các di tích thuộc văn hóa Bắc Sơn được phát hiện trong các núi đá vôi Bắc Sơn (thuộc tỉnh Lạng Sơn) và tỉnh Bắc Cạn. Các di tích này cũng tìm thấy trong vùng phân bố của văn hóa Hòa Bình như Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình,…

Cư dân Bắc Sơn mặc dù đã biết đến nông nghiệp nhưng nguồn sống chính vẫn là nhờ săn bắt và hái lượm. Một thành tựu kỹ thuật mới của cư dân Bắc Sơn là đã biết chế tác đồ gốm. Đồ gốm Bắc Sơn thường có miệng loe và đáy tròn. Độ nung của gốm chưa cao. Mặc dù văn hóa Bắc Sơn đã đạt đến trình độ cao hơn văn hóa Hòa Bình, đã là một văn hóa mới có gốm sơ kỳ, nhưng cấu trúc xã hội của cư dân Bắc Sơn vẫn nằm trong khuôn khổ công xã thị tộc mẫu hệ.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&Itemid=33&id=594