Archive | 1 Tháng bảy, 2017

Cố đô Hoa Lư

Hoa Lư được chọn là kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến tập quyền khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế năm 968…. Ngày nay dấu tích của Cố Đô Hoa Lư thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách thủ đô Hà Nội gần 100 km về phía Nam. Tuy chỉ được chọn làm kinh đô của nước Đại Cồ Việt trong thời gian ngắn ngủi ( 42 năm ) nhưng tại nơi đây đã diễn ra rất nhiều sự kiện có liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc như: gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống – dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội.

Du lịch Cố Đô Hoa Lư Ninh Bình
Du lịch Cố Đô Hoa Lư Ninh Bình

Theo sử sách thì cố đô Hoa Lư và đôi câu đối đền Vua Đinh thì ta thấy rằng: Hoa Lư xưa là 1 cung điện nguy nga, tráng lệ không kém gì Thành Trường An “ Cồ Việt Quốc Đương Tống Khai Bảo – Hoa Lư Đô Thị Hán Trường An ”…. Nếu nhìn về mặt địa lý ta sẽ hiểu vì sao khi lên Ngôi Vua Đinh Tiên Hoàng lại lựa chọn Hoa Lư làm kinh đô bởi: Những núi đồi trùng điệp bao bọc xung quanh vòng đai kinh đô như tấm bình phong; sông Hoàng Long uốn khúc và cánh đồng Nho Quan, Gia Viễn mênh mông là hào sâu thiên nhiên rất thuận lợi về mặt quân sự.

Kinh đô Hoa Lư xưa rộng khoảng 300 ha, gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8 – 10 mét. Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành, xã Trường Yên. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê là trung tâm và cũng chính là nơi vua Ðinh Tiên Hoàng cắm cờ dựng nước. Trước cung điện có núi Mã Yên tương truyền vua Ðinh đã lấy nơi này làm án.

Kinh thành Hoa Lư xua gồm 2 vòng thành nằm cạnh nhau và một vùng núi kề sát. 3 vòng tạo thành hình giống số 80 hướng về phía đông. Theo cách bố trí thời Đinh Lê các nhà nghiên cứu chia làm 3 vòng thành là thành Đông, thành Tây và thành Nam. Tuy nhiên do thành Nam chỉ là vùng căn cứ quân sự hiểm trở, phòng thủ mặt sau mà nó thường được dân gian gọi riêng là thành Tràng An, 2 vòng thành kia là nơi đặt cung điện nên còn được gọi là thành Hoa Lư…. Đến năm 1010 Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long thì Hoa Lư chỉ còn là Cố Đô được coi là một căn cứ địa quân sự hết sức quan trọng của quân và dân Đại Việt dưới các triều đại: Lý – Trần – Lê – Mạc – Tây Sơn…..

Cổng vào cố đô Hoa Lư Ninh Bình
Cổng vào cố đô Hoa Lư Ninh Bình

Ngày nay hình ảnh của Cô Đô Hoa Lư tuy không còn nguyên vẹn mà thay vào đó là đền thờ: Vua Đinh – Vua Lê được dựng ngay trên nền của Cố Đô Hoa Lư xưa. Hai ngôi đền cách nhau khoảng 500m, do khoảng cách gần nhau nên du khách thường gọi “ Cố Đô Hoa Lư ” là “ Đền Vua Đinh – Vua Lê ”.

Ðền vua Ðinh được xây theo kiểu “Nội công ngoại quốc” trên nền cung điện chính thuở xưa, uy nghi với ngọ môn quan, hồ sen, núi Giả, vườn hoa, nghi môn ngoại, nghi môn nội cùng ba toà bái đường, Thiêu hương và hậu cung. Tại bái đường có “Long Sàng” làm bằng đá nguyên khối với đôi nghê đá rất sống động. Tiếp đó là nhà thiêu hương thờ các vị khai quốc công thần. Trong cùng là hậu cung đặt tượng vua Ðinh Tiên Hoàng cùng các con trai ông. Các hình chạm khắc trên đá, trên gỗ với các đề tài rồng, mây, tiên nữ, hoa lá… trang trí tại đền đều khá tinh xảo.

Đền thờ Vua Đinh và Vua Lê Hoa Lư Ninh Bình
Đền thờ Vua Đinh và Vua Lê ở Hoa Lư Ninh Bình

Ðền vua Lê nằm cách đền vua Ðinh chừng 500 mét thờ vua Lê Ðại Hành. Ðền vua Lê có quy mô nhỏ hơn nhưng có có ba toà: Bái đường, Thiêu hương thờ Phạm Cự Lượng, người đã có công giúp Lê Hoàn lên ngôi; Chính cung – thờ vua Lê Ðại Hành (tức Lê Hoàn) ở giữa, bên phải là Lê Ngoạ Triều (con trai vua Lê), bên trái là Hoàng hậu Dương Vân Nga. Ðền vua Lê còn giữ nhiều dấu tích kiến trúc cổ với những mảng chạm trổ công phu, điêu luyện. Tại đây người ta đã tìm thấy di tích nền cung điện cũ cùng một số gốm sứ cổ. Những hiện vật quý này được lưu giữ tại phòng bảo tàng phía trái khu đền. Khu di tích Hoa Lư còn có một số ngôi chùa khá đẹp như: chùa Ngân Xuyên (gần chân núi Mã Yên), chùa Nhất Trụ (cách đền vua Lê khoảng 200 mét) thu hút được nhiều du khách đến dâng hương, vãn cảnh.

Đền thờ Vua Đinh và Vua Lê Hoa Lư Ninh Bình
Đền thờ Vua Đinh và Vua Lê ở Hoa Lư Ninh Bình

Với khoảng cách 100km tính từ Hà Nội và sự thuận tiện của hệ thống giao thông thì bạn chỉ mất khoảng hơn hai tiếng đồng hồ đi Ôtô… Đến đây và được nghe những câu chuyện về các vị vua được kể một cách giản dị, thành kính và đầy tự hào của các thuyết minh viên tại đểm chắc chắn sẽ khiến chi bạn có cảm giác tự hào về lịch sử nước nhà.

Nguồn: http://tourdulich.org.vn/diem-den-trong-nuoc/ninh-binh/co-do-hoa-lu/

Nhà Đinh (968-980)

Nhà Ðinh trị vì đất nước ta trong khoảng 13 năm (968-980), trải qua 2 đời vua, bao gồm: – Đinh Tiên Hoàng; – Đinh Phế Đế. 

 ♦ Ðinh Tiên Hoàng (968-979): 

Niên Hiệu: Thái Bình (970-979).
 

Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Ðại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con Ðinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Ðình Nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Ðinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở thường đi chơi với trẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau.

Lớn lên nhờ thông minh, có khí phách, lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ giấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông, nhưng vì bất hoà với chú, Bộ Lĩnh cùng với con là Ðinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu (Vũ Thư, Thái Bình). Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô có chí khí, Minh Công trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư chiêu mộ hào kiệt hùng cứ một phương.

Năm Tân Hợi (951) đời hậu Ngô Vương, Nam Tấn Vương, cùng Thiên Sách Vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Ðến khi nhà Ngô mất, Ðinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được Ðỗ Ðộng của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Ðinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương, chỉ trong một năm, Ðinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.

Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng Ðế đặt quốc hiệu là đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ðinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Ðinh Quốc Công, Lê Hoàn là Thập Ðạo Tướng Quân (tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Ðinh Liễn là Nam Việt Vương.

Về ngoại giao để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân (972), Ðinh Tiên Hoàng sai con là Ðinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt Vương Ðinh Liễn là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.

Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Ðinh Tiên Hoàng đã dẹp xong loạn sứ quân nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn, Ðinh Tiên Hoàng đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hình phạt ấy nhưng mọi người sợ oai, phép nước được tuân thủ.

Nhưng rồi Ðinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út là Hạng Lang làm Thái tử. Con trưởng là Nam Việt Vương Ðinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thủa hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết Hạng Lang đi. Họa loạn gây nên ngay trong hoàng tộc.

Năm Kỷ Mão (979) Ðinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Ðinh Liễn bị tên Ðỗ Thích giết chết. Sử chép rằng tên Đỗ Thích trước khi làm hại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Ðỗ Thích thấy vua Ðinh say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Ðinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Ðỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ Vương Ðinh Toàn lên làm vua.

Ðinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.

 ♦ Đinh Phế Đế (979-980): 

Ðinh Tiên Hoàng có 3 người con trai: Ðinh Liễn, Ðinh Toàn (có sách gọi là Ðinh Tuệ) và Ðinh Hạng Lang. Ðinh Liễn và Ðinh Hạng Lang đã chết mặc nhiên Ðinh Toàn kế nghiệp ngôi vua. Các đại thần Ðinh Ðiền, Nguyễn Bặc thấy vua còn nhỏ quyền bính nằm cả trong tay thập đạo tướng quân Lê Hoàn, lại nghi là Lê Hoàn tư thông với Dương Thái Hậu (Dương Vân Nga) nên cử binh mã đến đánh. Nhưng bị Lê Hoàn giết sạch. Giữa lúc ấy nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng mất, các đại thần nước Việt phân liệt tranh chấp gay gắt, có nguy cơ nội chiến, muốn thừa thế sang lấy nước Việt mới hội đại binh ở gần biên giới. Lê Hoàn sai Phạm Cự Lượng làm đại tướng đem binh đi chống giữ. Trước lúc tiến quân Phạm Cự Lượng họp cả quân sĩ lại ở trong điện nói rằng: “Bây giờ quân địch sắp vào cõi mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng ta. Dẫu chúng ta có hết sức lập được chút công nào thì rồi ai biết cho? chẳng bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên làm vua rồi ra đánh cũng chưa muộn. Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế. Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước cũng thấy rõ chỉ có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này. Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên ngôi tối thượng thay cho vị vua mới 6 tuổi là con Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga đã lấy trước long bào, bà choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của quân sĩ. Sự tỏ ý nhường ngôi của Dương Vân Nga trong hoàn cảnh ấy, đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của một người, thức thời có tầm nhìn xa, trông rộng xứng đáng được coi là anh hùng”.

Ðinh Toàn chỉ làm vua được 8 tháng, sử gọi là Phế Ðế rồi tồn tại với tước vương (Vệ Vương) có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm Tân Sửu (1001) trong dịp cùng vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ, Thanh Hoá, Ðinh Toàn bị trúng tên hy sinh trên chiến tuyến vào tuổi 27.

Như vậy, triều đình Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 năm. Lê Hoàn lên làm vua, Dương Vân Nga trở thành Hoàng Hậu.

Nguồn: http://www.vietnamtourism.com/index.php/about/items/1950

CỔ LOA: MỘT KHÔNG GIAN LỊCH SỬ – VĂN HÓA

Công trình “Địa chí Cổ Loa” (Nxb Hà Nội, 2007) do GS.TS Nguyễn Quang Ngọc và PGS.TS Vũ Văn Quân đồng chủ biên với sự tham gia đông đảo các cán bộ khoa Lịch sử và Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. Sách được Hội Xuất bản Việt Nam trao Giải Bạc sách hay và Giải Đồng sách đẹp năm 2008. Xin giới thiệu với bạn đọc phần Mở đầu cuốn sách này.
Cổ Loa – địa danh thân thuộc với bất kỳ người Việt Nam nào, ngay từ khi còn là trẻ nhỏ mới đến trường với bài học đầu tiên về lịch sử dân tộc. Cổ Loa nay là một xã thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Nhưng Cổ Loa được biết đến trước hết bởi đó là kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương với toà Thành ốc nổi tiếng.
Thành Cổ Loa
Năm 208 TCN, nước Âu Lạc được thành lập trên cơ sở tiếp nối nước Văn Lang thời các vua Hùng – một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nước Âu Lạc ra đời là sự hợp nhất của hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt, thể hiện bước phát triển mới của quốc gia cổ đại người Việt. Thục Phán An Dương Vương – vua nước Âu Lạc, trong một bối cảnh và yêu cầu mới, đã thể hiện tầm nhìn của một nhà chính trị chiến lược khi quyết định dời vị trí trung tâm đất nước xuống vùng đồng bằng – chọn Cổ Loa làm nơi đóng đô.
Quyết định chọn vùng đất Cổ Loa làm kinh đô, An Dương Vương và quân dân Âu Lạc bấy giờ cũng đồng thời bắt tay vào một nỗ lực phi thường: chỉ trong một thời gian ngắn, một toà thành đồ sộ và độc đáo đã được hoàn thành. Đó là thành Cổ Loa, “thành ốc”, có thành cao hào sâu, có thuỷ bộ liên hoàn, có trong ngoài phối hợp… Cùng sự đoàn kết quân dân trên dưới một lòng, toà thành vững chắc này đã khiến quân xâm lược Triệu Đà nhiều phen đại bại.
Nhưng rồi cuối cùng thành Cổ Loa – nước Âu Lạc đã không đứng vững được trước kẻ thù xâm lược ngoại bang. Thành chắc đấy, vũ khí lợi hại đấy, nhưng từ vua quan đến chúng dân Âu Lạc – tổ tiên ta buổi đầu dựng nước – vẫn còn quá chất phác, hồn nhiên, mà kẻ thù lại lắm xảo quyệt, mưu mô. Nguyên nhân mất nước dồn cả vào một lỗi lầm của Mỵ Châu nhẹ dạ tin người. An Dương Vương xé lòng khi phải tuốt gươm chém đầu con gái, nhưng đó cũng chính là thời điểm người Việt nhận thức sâu sắc phải làm gì để tồn tại và tiến lên trong một bối cảnh mà xâm lăng từ bên ngoài sớm trở thành áp lực. Chỉ có điều, cha ông ta đã phải trả giá quá đắt cho bài học lịch sử này. Nước mất, nhà tan, cơ đồ Âu Lạc chìm đắm trong đêm trường Bắc thuộc nghìn năm.
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, Cổ Loa – Âu Lạc rơi vào tay đô hộ Trung Hoa. Chính quyền cai trị Trung Hoa, trong một thời gian dài, vẫn chọn Cổ Loa làm thủ phủ. Thành trì được gia cố phục vụ cho nhu cầu của bọn thống trị. Những khi người Việt vùng lên – thời Hai Bà Trưng, Lý Phật Tử – Cổ Loa thường được chọn làm điểm tựa, cả vật chất lẫn tinh thần. Song vì thế ta chưa mạnh, lực ta chưa đủ mà nền độc tập mong manh không giữ được. Nhưng Cổ Loa vẫn sừng sững đó một toà thành – chứng tích hào hùng của thời mở nước. Người Việt vẫn hướng về Cổ Loa mà tăng thêm nghị lực, tăng thêm sức mạnh trong cuộc đấu tranh bền bỉ khôi phục nền độc lập dân tộc.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 đã kết thúc hơn một nghìn năm mất nước. Ngô Quyền, kế thừa thành quả của hơn ba mươi năm dựng nền tự chủ thời họ Khúc, họ Dương, đã có đủ sức mạnh nhấn chìm hàng vạn quân Nam Hán xuống sông Bạch Đằng và vứt bỏ danh hiệu Tiết độ sứ mà xưng vương, khẳng định dứt khoát nền độc lập của người Việt. Trở về Cổ Loa đóng đô, Ngô Quyền muốn nối lại quốc thống, chắp lại mạch dòng. Ý thức đó của Ngô Quyền đủ thấy dòng chảy tinh thần Việt không hề gián đoạn, trái lại nó càng được củng cố trước những thử thách khắc nghiệt trong hơn một nghìn năm mất nước. Thành trì được bồi trúc thêm, điện đài được xây dựng mới. Triều đình Cổ Loa tuy mới được thiết lập nhưng cũng đã hiện rõ vẻ bề thế đế vương.
Nhưng chính quyền nhà Ngô không duy trì được lâu dài. Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), triều đình vắng đi người người đủ tài đủ đức, đủ công huân để các hào trưởng anh hùng nhất khoảnh tự nguyện thần phục. Chính quyền Cổ Loa tan rã (năm 965), đất nước loạn lạc, mười hai sứ quân tung tác khắp nơi. Nền độc lập vừa giành lại được có nguy cơ đổ vỡ khi phải đối diện với một Trung Quốc của nhà Tống vừa mới được tái thống nhất. Đinh Bộ Lĩnh cờ lau dẹp loạn, thống nhất sơn hà, chuyển đô về Hoa Lư (năm 968). Trải các nhà Đinh – Tiền Lê, với nhiều nỗ lực lớn lao, quốc gia độc lập và thống nhất Đại Cồ Việt đã được xác lập vững chắc. Trên cơ sở đó, năm 1010 Lý Công Uẩn quyết định dời đô ra thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long. Một kỷ nguyên mới bắt đầu.
Cổ Loa, từ ngày chính quyền nhà Ngô tan rã đã dần mất đi dáng vẻ đế vương. Cổ Loa đã làm trọn vai trò lịch sử vĩ đại khơi dòng và nối dòng, để đất nước quá độ qua Hoa Lư, rồi vững vàng ở đất Thăng Long “long bàn hổ cứ”. Từ Cổ Loa đến Thăng Long vẫn một Hà Nội – thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, một hành trình lịch sử không phải chỉ một nghìn năm.
Từ đấy, Cổ Loa bước vào quá trình nông thôn hoá. Dân các vùng xung quanh và dân tứ xứ, xa xôi tận miền Thanh Nghệ, đổ về dựng nhà dựng cửa, vỡ đất trồng cây làm đồng cấy lúa. Các xóm làng dần hình thành trong và bên các vòng thành. Một Cổ Loa với diện mạo và sức sống mới ra đời. Nhưng một Cổ Loa kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương, của Ngô Quyền thời buổi đầu độc lập thì cũng vẫn còn đó. Người Việt Nam, người Cổ Loa lưu giữ và truyền nối toàn bộ di sản đó từ đời này qua đời khác. Các triều đình phong kiến Việt Nam cũng ý thức được sâu sắc vị trí lịch sử của Cổ Loa nên luôn có những chính sách đặc biệt đối với vùng đất này.
Sáu bảy chục năm dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây, Cổ Loa cũng như những làng quê Việt Nam khác, chịu nhiều tầng áp bức bóc lột. Không cam chịu thân phận nô lệ, Cổ Loa sớm dấn mình vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc giành độc lập tự do. Trong những năm trước ngày Cách mạng tháng Tám, Cổ Loa là một cơ sở quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương, nơi nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp của Đảng. Cổ Loa cũng là một trong những địa phương giành được chính quyền sớm nhất của huyện Đông Anh và của Hà Nội.
Trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Cổ Loa có ví trí chiến lược hết sức quan trọng mà kẻ địch tìm mọi cách chiếm lấy. Nhưng quân dân Cổ Loa đã chiến đấu kiên cường, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công quy mô lớn với binh lực áp đảo của đối phương, làm thất bại âm mưu của chúng. Dù phải gánh chịu nhiều hy sinh mất mát, nhưng Cổ Loa vẫn đứng vững qua những tháng năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần cùng quân dân cả nước đi đến trận đại thắng Điện Biên Phủ, đánh đuổi giặc Pháp, giải phóng miền Bắc.
Hoà bình lập lại, Cổ Loa cùng miền Bắc bắt tay vào công cuộc xây dựng mới. Cổ Loa là một trong những đơn vị đi đầu của toàn huyện Đông Anh và thành phố Hà Nội trên nhiều lĩnh vực. Trong những tháng năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Cổ Loa luôn “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Lớp lớp thanh niên Cổ Loa lên đường nhập ngũ. Hàng trăm người con của Cổ Loa vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường. Trong chiến tranh phá hoại, Cổ Loa là nơi hứng chịu nhiều trận đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Hàng trăm người chết, nhiều nhà cửa bị đánh sập, tổn thất về người và của hết sức nặng nề. Vượt lên trên mất mát đau thương, cán bộ và nhân dân Cổ Loa đoàn kết một lòng, giữ vững sản xuất, làm tròn trách nhiệm hậu phương, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Vượt qua những tháng năm khó khăn sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Cổ Loa cùng cả nước bước vào công cuộc đổi mới. Thành tựu sau hai mươi năm thật lớn lao. Bộ mặt kinh tế Cổ Loa chuyển biến căn bản. Đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân được cải thiện, được nâng cao rõ rệt. Cùng với sự đầu tư của thành phố, của nhà nước, Cổ Loa đang chuẩn bị bước vào một thời kỳ mới, với những thay đổi to lớn. Toàn bộ quá khứ Cổ Loa sẽ sống dậy trong công cuộc phục hưng mới vùng đất này. Một Cổ Loa với dáng vẻ cổ kính của thành luỹ điện đài rồi đây sẽ hiện ra bên cạnh một Cổ Loa hiện đại trong một tổng thể hài hoà.
Cổ Loa mà chúng ta đang có là ngưng đọng của cả mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Toàn bộ lịch sử ấy kết tinh trong những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể vô cùng to lớn của mảnh đất này.
Lòng đất Cổ Loa là nơi ẩn dấu nhiều tầng văn hoá, từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn, trở thành nơi “hội tụ” của Văn minh sông Hồng, với hàng loạt di chỉ khảo cổ trên địa bàn Cổ Loa và vùng phụ cận, trong đó không ít đã đi vào bản đồ khảo cổ học Việt Nam nổi tiếng trong nước và thế giới. Cổ Loa và khu vực xung quanh đã và sẽ là mảnh đất hấp dẫn đối với các nhà khảo cổ học để lật tìm về quá khứ xa xưa của vùng đất này, cũng là hình ảnh xa xưa của Việt Nam trong những ngày đầu của quá trình dựng nước. Tiềm ẩn mà cũng là tiềm năng, là di sản khi mỗi tấc đất Cổ Loa đều ẩn chứa những trang quá khứ kỳ bí và hấp dẫn.
Trên mặt đất Cổ Loa, đó là toà thành đồ sộ – kết lớp của đất đá mà cũng là kết lớp của mồ hôi, nước mắt, máu xương của bao thế hệ người Việt Nam, khi hăm hở thời buổi đầu dựng nước, khi tủi nhục thời đô hộ ngoại bang, khi hồ hởi ngày giành lại non sông. Không chỉ đồ sộ về quy mô, thành Cổ Loa còn độc đáo về kiểu thức với cấu trúc nhiều lớp thành uốn lượn, là toà thành cổ nhất, to lớn nhất của Việt Nam và toàn Đông Nam Á thời cổ đại. Bên cạnh toà thành, Cổ Loa còn cả một quần thể các công trình kiến trúc vô cùng phong phú bao gồm nhiều loại hình với nhiều chức năng khác nhau. Đó là những công trình tưởng niệm, những công trình mang chức năng tôn giáo, tín ngưỡng, từ đình đền đến chùa chiền, am lăng, đến điếm xóm điếm ngõ, từ những ngôi nhà gỗ kiểu cổ đến ngôi nhà trình tường độc đáo, điển hình của nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ…
Những giá trị văn hoá phi vật thể của vùng đất Cổ Loa cũng mang những ý nghĩa hết sức lớn lao. Cổ Loa là kinh đô của nước Âu Lạc chỉ có mấy chục năm, nhưng trong suốt hơn hai nghìn năm, cho đến hôm nay và mãi mãi về sau, người Việt Nam chưa khi nào quên Cổ Loa. Cổ Loa hằng tồn trong tâm thức của người dân vùng đất này, hằng tồn trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Đó là hình ảnh nước Âu Lạc buổi đầu dựng nước với biết bao câu chuyện nửa thực nửa hư mà đến nay vẫn còn đọng lại trong ký ức dân gian, ở từng tên xóm ngõ, ở từng tên xứ đồng. Đó là sức sống của bài học lịch sử sớm phải biết tự trưởng thành, nhưng cũng thấm đượm lòng nhân ái mênh mông..

Triều Ngô (938-965)

Triều Ngô: Ngô Vương (939-944) Hậu Ngô Vương (950-965) 

 Ngô Quyền phá quân Nam Hán: 

Đền Ngô Quyền

Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Ðình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3 năm Ðinh Tỵ (897) ở Ðường Lâm (Ba Vì – Hà Tây). Cha của Ngô Quyền là Ngô Mâm, một hào trưởng có tài. Lớn lên trên quê hương có truyền thống bất khuất, nơi sinh sản và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô Quyền sớm tỏ rõ trí khí phi thường hiếm thấy. Vốn thường xuyên luyện tập võ nghệ nên tiếng tăm Ngô Quyền lan rộng cả một vùng. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư mô tả Ngô Quyền “vẻ khôi ngô, sức có thể nhấc vạc, giơ cao”. Vì có tài nên Dương Ðình Nghệ giao cho Ngô Quyền cai quản đất Ái Châu và gả con gái cho.

Trong 5 năm (934-938), Ngô Quyền đã đem lại yên vui cho đất Ái Châu, tỏ rõ là người có tài đức. Khi Dương Ðình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại và vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo đem quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để  trừ nội phản, diệt ngoại xâm. Từng hâm mộ tài đức của Ngô Quyền, hào trưởng từ nhiều nơi đem binh về với Ngô Quyền. Ðầu mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền đem quân vượt qua đèo Ba Dội, tiến như vũ bão vào Ðại La, bắt giết tên nội phản Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành. Thù trong đã diệt xong, Ngô Quyền rảnh tay đối phó với giặc ngoài. Ðem quân xâm lược nước ta, chưa biết thắng bại ra sao, Lưu Cung đã vội phong cho con tước Giao Vương (tước vương đất Giao Chỉ). Lưu Cung còn đích thân đốc quân ra đóng ở trấn Hải Môn để sẵn sàng chi viện. Ðể chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra kế hoạch độc đáo. Ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bặch Ðằng khi nước triều lên ông cho quân ra khiêu chiến, quân Nam Hán đuổi theo, thuyền giặc vào bên trong hàng cọc, đợi khi thuỷ triều xuống sẽ dốc toàn sức tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh gọn. Tháng 12 năm Mậu Tuất (938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Ðằng. Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền. Bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời gian ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa, máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng Tháo cũng bị đâm chết tại trận. Tin thất trận ở sông Bạch Ðằng cùng với tên Hoằng Tháo bị giết khiến vua Nam Hán kinh hoàng phải khóc lên, thu nhặt tàn binh rút chạy.

Lăng Ngô Quyền

Vua Nam Hán trước tên là Nham sau đổi là Thiệp rồi sau đó “vì có rồng trắng hiện lên” nên đổi là Cung. Bị thất trận, vua Nam Hán cho tên Cung là xấu và đã đổi tên khác là Yểm tức Lưu Yểm.

Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi chức tiết độ sứ, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội). Ðể củng cố trật tự chiều chính triều Ngô, Ngô Quyền đặt ra các chức quan văn võ, quy định nghi lễ trong triều. Ðáng tiếc, thời gian trị vì của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944) thì mất, thọ 47 tuổi.

 Dương Tam Kha:
Thời trẻ, Ngô Quyền lấy con gái Dương Ðình Nghệ. Khi Ngô Quyền lên ngôi vua, Dương Thị được lập làm Vương Hậu. Khi sắp mất, Ngô Vương uỷ thác con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha là em Dương Hậu. Lợi dụng cháu nhỏ, Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy biến, chạy trốn vào Nam Sách (Hải Dương) vào ở ẩn nhà Phạm Lệnh Công. Dương Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập trốn trong núi, Dương Tam Kha bắt em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Năm Canh Tuất (950) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Ðỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh. Ðến Từ Liêm, Ngô Xương Văn mưu với 2 tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ giết chỉ giáng Tam Kha xuống làm Chương Dương Công.

 Hậu Ngô Vương (950-965): 
Ngô Xương Văn gạt bỏ Dương Tam Kha xưng là Nam Tấn Vương và sai người tâm phúc đi đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng trông coi việc nước. Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương. Cả hai anh em đều làm vua, sử gọi là hậu Ngô Vương.

Làm vua được ít lâu, Thiên Sách Vương nghĩ cách trừ Nam Tấn Vương để một mình làm vua. Âm mưu đó chưa kịp thi hành thì năm Giáp Dần (954) Thiên Sách Vương mất. Ðến lúc này, thì lực triều Ngô ngày một suy yếu, thổ hào các nơi xưng là sứ quân ra sức chống đối buộc Nam Tấn Vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Năm Ất Sửu (965) trong một trận giao chiến ở Thái Bình (Đường Lâm, Sơn Tây), Nam Tấn Vương không may bị giặc bắn chết, làm vua được 15 năm. Con Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp lên làm vua về giữ đất Bình Kiều, Thanh Hoá. Như vậy, triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn, đến Ngô Xương Xí, truyền được 3 đời, kéo dài 26 năm. Ðến Ngô Xương Xí trong nước có cả thảy 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo dài hơn 20 năm, 12 sứ quân đó là:

1. Ngô Xương Xí, giữ Bình Kiều (Triệu Sơn – Thanh Hoá).
2. Ðỗ Cảnh Thạc, giữ Ðỗ Ðộng Giang (Thanh Oai – Hà Tây).
3. Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Ðái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc).
6. Ngô Nhật Khánh, giữ Ðường Lâm (Phúc Thọ, Hà Tây).
7. Lý Kê, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh).
8. Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lữ Ðường, giữ Tên Giang (Vân Giang, Hưng Yên).
10. Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội).
11. Kiều Thuận, giữ Hởi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ).
12. Phạm Bạch Hổ, giữ Ðằng Châu (Hưng Yên).

Những sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau Ðinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp loạn sứ quân, quy giang sơn về một mối lập lên cơ nghiệp nhà Ðinh.

Nguồn: http://www.vietnamtourism.com/index.php/about/items/1942