Tag Archive | văn hóa

Đồ gốm Đồng Nai qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học

1. Ở Đồng Nai, công tác nghiên cứu khảo cổ học đã góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu về lịch sử của vùng đất này. Những di tích, di vật khảo cổ học ở Đồng Nai được phát hiện, nghiên cứu rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử gắn liền với công lao của của các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.

Hơn một thế kỷ với hàng trăm cuộc điều tra, thám sát, khai quật, khảo cổ học đã đưa ra ánh sáng hàng trăm di chỉ với hàng chục vạn hiện vật: công cụ sản xuất, sinh hoạt, đồ trang sức, đồ thờ, nhạc cụ… rất đa dạng, phong phú và những cấu trúc địa tầng văn hoá đã cung cấp một nguồn cứ liệu, thông tin quan trọng về niên đại, trình độ văn minh, hình thái xã hội của những lớp cư dân cổ Đồng Nai.

Từ những phát hiện lẻ tẻ lúc ban đầu vào những thập niên cuối thế kỷ XIX cho đến việc nghiên cứu hệ thống khoa học các di tích, di vật trên địa bàn Đồng Nai hiện nay, các nhà khoa học đã đưa đến những nhận định về một nền văn hoá cổ từng hình thành được định danh “ Phức hệ văn hoá Đồng Nai “ hay ” Văn hoá Đồng Nai “. Đồng Nai được biết đến với tư cách là một trong những trung tâm của buổi bình minh xã hội loài người. Nơi đây, từng chứng kiến sự hình thành, phát triển của cộng đồng người cổ thời tiền sơ sử cho đến những thế kỷ sau công nguyên, trước khi cư dân Việt đến khai khẩn vào thế kỷ XVI. Hàng loạt các di tích, di vật khảo cổ học đã góp phần làm sáng tỏ một nền văn hoá cổ xưa từng tồn tại và phát triển trên vùng đất này. Các di tích khảo cổ gồm các loại hình: cư trú, công xưởng, mộ táng, đền tháp… của cư dân cổ trải đều trên các địa hình đặc trưng của Đồng Nai từ vùng núi đồi tiếp giáp cao nguyên đến vùng đất đứt gãy phun trào đất đỏ ba – zan và cả vùng phù sa cổ các bồn trũng, vùng ngập nước cận sông, biển.

            Bên cạnh những chủng loại hiện vật đa dạng từ nhiều chất liệu khác nhau như đồ đá, đồ gỗ thì đồ gốm Đồng Nai được phát hiện chiếm số lượng khá nhiều trong các di chỉ khảo cổ học được phát hiện ở Đồng Nai. Điều này cho thấy, các cư dân cổ vùng Đồng Nai trong tiến trình phát triển của mình đã biết chế tác và sử dụng đồ gốm. Dựa trên những kết quả nghiên cứu khảo cổ học, chúng tôi mong được giới thiệu một số những di chỉ khảo cổ đã từng được phát hiện những hiện vật gốm tiêu biểu để người đọc có cái nhìn khái quát về đồ gốm cổ trên vùng đất Đồng Nai.

2. Một số di chỉ di chỉ khảo cổ học tiêu biểu trong văn hóa Đồng Nai:

            – Di chỉ Bình Đa ( thuộc phường An Bình, thành phố Biên Hoà ). Năm 1979,  di chỉ được khai quật lần thứ nhất. Rất nhiều hiện vật bằng đá, gốm được phát hiện, trong đó có hàng chục ngàn mảnh gốm Đồng Nai. Riêng trong hố khai quật số 1, các nhà nghiên cứu thu nhặt 38.000 mảnh gốm. Gốm Đồng Nai được làm bằng bàn xoay và nặn bằng tay, có độ nung cao, áo gốm được miết láng. Có 4 loại gốm ( phân loại theo màu sắc và chất liệu ): gốm đỏ và đỏ nhạt, gốm xám, gốm đen và gốm thô. Số lượng gốm được tranh trí hoa văn chiếm tỉ lệ cao. Hoa văn  được tạo bằng cách dập ( hình nan chiếu ), chải, vạch và miết láng. Đồ án thường thấy là các đường thẳng song song, lượn hình sóng, nửa đường tròn quay ( phiá trong có những hình nửa đường tròn nhỏ hơn, đồng tâm quay cùng một hướng ), hình răng sói và hình chữ nhật.

            Mặc dù, không có đồ gốm Đồng Nai nào còn nguyên vẹn hình dáng nhưng cũng có thể nhận dạng được một số loại hình như kiểu bát bồng có chân đế cao hình ống hoặc choãi ra, nhiều kiểu nồi, vò có đáy tròn, đáy lõm và đáy bằng.

            Năm 1992, đợt khai quật lần thứ hai thu thập được 105 đồ đất nung và 9.389 mảnh gốm vỡ thuộc các loại hình đồ đựng khác nhau. Trong đó, đồ gốm Đồng Nai còn nhận được dạng như: bình ( số lượng 1, dạng con tiện, được chế tạo bằng bàn xoay, xương màu nâu, vỏ phủ màu nâu gạch); hũ ( số lượng 2,  bị vỡ, chất liệu bằng đất sét pha cát thô, độ nung cao, xương cứng, áo phủ màu nâu sành, miệng loe vành ); đĩa ( số lượng 4, chất liệu sét pha nhiều bả thực vật, vỏ nhuyễn thể nghiền nát và cát thô, độ nung cao, xương gốm dày); gốm hình trụ ( còn gọi là “ gốm sừng bò ”, số lượng 5, chất liệu sét pha cát mịn, độ nung cao, xương rất cứng, đầu trụ thon tròn và nhọn ); bi gốm ( số lượng 49, đường kính trung bình của bi từ 1,8 – 2,6 cm ); gốm tròn ( số lượng 11 mảnh, trên thân có trang trí hoa văn thừng và chải mịn ); nồi nấu đồng ( số lượng 3, dạng tròn và bóp lại kiểu chuôi muỗng, thành gốm dày, đường kính rộng trung bình từ 11 – 14 cm, cao 5 – 8 cm ). Những mảnh gốm vỡ có 9.547 mảnh, trong đó có 3215 mảnh phần miệng, 63 mảnh nắp đậy, 411 mảnh đáy đế, và 3.858 mảnh thân. Trong số các mảnh thân  có 343 tiêu bản có gờ, 4.438 tiêu bản  trơn và 1077 tiêu bản có hoa văn.

Gốm Bình Đa đựơc chế tạo bằng tay ( chiếm tỉ lệ thấp ) và bàn xoay ở trình độ khá tiến bộ. Chất liệu gốm từ đất sét được lọc kỹ, pha cát mịn, bột vỏ nhuyễn thể, bã thực vật và một ít bột đá trắng, xám. Phần lớn hiện vật gốm Bình Đa có độ nung cao, xương có màu đen nhạt, xám, nâu và cứng chắc. Aó gốm có hai loại. Loại phủ màu bề mặt có màu như: nâu, nâu đỏ, xám vàng, xám nhạt, vàng nhạt, trắng đục, đen ám khói và đa màu; loại bôi màu trang trí trước khi nung với trình độ kỹ thuật cao có các màu chủ đạo là đỏ tươi, đen, nâu. Những tiêu bản hiện vật gốm Bình Đa các loại cho thấy cư dân cổ đã xử dụng những thao tác kỹ thuật như nặn vuốt, miết láng bằng tay, bàn đập – hòn kê, dải cuộn, gắn kết chân đế hay gờ nổi để tạo hình tuỳ theo chức năng của đồ dùng. Hoạ tiết trang trí trên gốm Bình Đa khá đa dạng như: văn chải, văn thừng, văn khắc, văn in, răng cưa, khuông nhạc, đường cung, sóng nước, hình tam giác, hình bầu dục, đường cắt chéo…

– Di chỉ Cầu Sắt ( xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh ): Di chỉ được khai quật tháng 12/ 1976. Niên đại đoán định 5000 – 4000 năm cách ngày nay. Di chỉ là loại hình cư trú của cư dân nông nghiệp sớm và là xưởng chế tác đồ đá và đồ gốm Đồng Nai. Đồ gốm Đồng Nai thu thập được hầu hết bị vỡ, không phục nguyên được. Số lượng gồm 15.786 tiêu bản, trong đó có 2.041 mảnh  miệng, 206 mảnh đáy, đế, 13.539 mảnh thân. Số tiêu bản gốm có hoa văn là 2.176 mảnh ( tỉ lệ 16% ), 11.363 mảnh trơn ( tỉ lệ 84% ). Gốm được chế tác bằng tay và bằng bàn xoay, hoa văn trang trí bằng bàn dập, lăn thừng và khắc vạch, lớp áo gốm mịn, có màu sắc khác với xương gốm. Có các loại gốm: gốm trắng, đỏ mịn; gốm đen thô; gốm đỏ thô và gốm đen mịn.Một số loại hình như: chậu và nồi ( có kích thước lớn, miệng loe, đáy tròn ), bát ( miệng loe, đế ghép, thấp ), “ đậu “ – còn gọi là bát chân cao, trên dạng hình đĩa, chân đế choãi cao; gốm tròn ( một số mảnh gốm được mài tròn, được dùi lỗ ở giữa ).

– Di chỉ Gò Me ( phường Thống Nhất, thành phố Biên Hoà ). Niên đại đoán định khoảng 3000 – 2500 năm cách ngày nay. Hiện vật gốm Đồng Nai thu được hàng trăm mảnh trong bề mặt và các địa tầng văn hoá. Có ba loại gốm: gốm trắng ( chiếm số số lượng ít ), gốm đen và gốm đỏ. Hoa văn được tạo bằng kỹ thuật chải, dập và in thừng. Một số loại hình thu thập được như dọi xe sợi, bi gốm, chén rót đồng ( miệng phẳng, thành dày, đáy tròn ),  dạng bát mâm có chân đế cao, choãi rộng.

– Di chỉ Suối Linh thuộc địa phận phân trường 3,lâm trường Hiếu Liêm ( huyện Vĩnh Cửu ). Năm 1985, di chỉ Suối Linh được khai quật. Hiện vật gốm thu thập được gồm 39 chiếc bàn xoa, 1 mảnh gốm tròn, 1 thỏi gốm hình trụ; ngoài ra còn có 15.780 mảnh gốm vỡ của đồ đựng và 397 mảnh vỡ từ các bàn xoa. Gốm Suối Linh thuộc loại gốm thô, pha nhiều cát, bã thực vật và vỏ nhuyễn thể nghiền vụn. Aó gốm có màu nâu đỏ, nâu sẫm, xương gốm có màu nâu nhạt hoặc cùng màu với áo gốm. Loại gốm có xương đen không nhiều; gốm mịn có màu xám nâu hay xám vàng chiếm tỉ lệ khoảng 15% tổng số gốm thu nhặt được. Những mảnh gốm vỡ cho thấy các các loại đồ đựng dạng nồi, vò có miệng loe, hông và đáy tròn khá phổ biến trong cư dân cổ từng cư trú tại đây. Một số ít đồ gốm có miệng khum, phía dưới có đế. Khoảng 14% mảnh gốm trong tổng số thu nhặt có hoa văn, chủ yếu là văn chải ( tỉ lệ khoảng 90% ), số còn lại là các loại văn miết, in, khắc vạch và đắp nổi. Di chỉ Suối Linh là địa điểm đầu tiên thu nhặt được số lượng bàn xoa gốm khá cao. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể di chỉ là công xưởng sản xuất đồ gốm nói chung hay bàn xoa gốm nói riêng của cư dân cổ để trao đổi với các khu vực khác. Niên đại di chỉ được ước định khoảng 4.500 năm – 2.500 năm cách ngày nay.

– Di chỉ Suối Chồn thuộc địa phận xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh. Tại di chỉ, đồ gốm Đồng Nai thu nhặt qua các đợt đào thám sát và khai quật khá phong phú. Đồ gốm có dọi xe sợi, bi gốm, núm gốm và nhiều mảnh vỡ; đặc biệt có các nồi gốm ( chum ) dùng để chôn người chết. Nồi gốm dùng làm quan tài này có chiều cáo 50 cm, đường kính thân 60 cm, đường kính miệng 45 – 50 cm, miệng loe, đáy lồi tròn, có văn chải trên thân nồi. Đồ gốm di chỉ Suối Chồn có nhiều loại thô, min và xốp. Hầu hết, chúng được làm bằng đất sét pha cát, có bàn xoay, độ nung khá cao. Gốm có các loại màu xám, đỏ gạch, xanh xám, hồng nhạt. Loại hình nồi gốm có miệng loe, nồn miệng thấp. Hoa văn trang trí là văn chải, văn khắc vạch hình tam giác cân có vạch đường song song, loại hoa văn này phổ biến ở di chỉ Cái Vạn ( Nhơn Trạch ). Niên đại ước định khoảng nửa sau Thiên niên kỷ I trươc Công nguyên.

Cụm di chỉ Hàng Gòn là tên gọi chung cho nhiều địa điểm mà các nhà nghiên cứu đặt tên theo số thứ tự từ 1 đến 10 – nay thuộc địa phận thị xã Long Khánh và huyện Cẩm Mỹ. Trên khu vực rộng lớn của Nông trường Hàng Gòn, các nhà nghiên cứu phát hiện rất nhiều hiện vật khảo cổ  thuộc các thời đại trong thời kỳ tiền sử. Tại địa điểm Hàng Gòn 1( còn có tên Núi Gốm, đồi đất đỏ ba zan giữa Suối Râm và Suối Sâu ), những mảnh gốm Đồng Nai phát hiện chủ yếu là các dạng nồi, bát, tô, đĩa ( một số bát, tô có đế và có dấu khoan thủng ở đáy hoặc gần miệng ). Loại xương gốm đen làm bằng đất sét trộn với bả thực vật và loại xương gốm trắng có trộn cát thạch anh, phen phát, sạn sắt, Các loại gốm đều mịn, áo gốm có màu nâu, đỏ, độ nung cao. Địa điểm Hàng Gòn 3 ( cách trung tâm Nông trường Hàng Gòn khoảng 1 Km về phía đông ) thu thập được những mảnh thân gốm mỏng từ các loại nồi, vò và 1 bi gốm.  Xương gốm màu đen, áo màu nâu vàng, hồng và nâu đỏ, độ nung kém. Một số mảnh dạng miệng cốc, bát chân cao đáy bằng và nắp đậy có núm. Hoạ tiết trang trí là những đường song song, chéo nhau được in hoặc dập. Địa điểm Hàng Gòn 4 ( phía bắc chân núi Cẩm Tiêm ) có những tiêu bản gốm mỏng, có xương đen, xám, đỏ, vàng và được làm từ sét pha thạch anh, phen phát. Hoa văn răng lược hoặc đan. Địa điểm Hàng Gòn 5 ( cách chân núi Cẩm Tiêm 3,5 km về phía Bắc ) phát hiện nhiều mảnh gốm với các màu đa dạng. Gốm màu vàng đỏ, xương xám pha nhiều cát, hạt phen phát  chủ yếu từ các đồ đựng như nồi, vò, có mảnh miệng có đường gờ để đậy nắp. Gốm màu đen pha thạch anh, độ nung cao; chủ yếu là các đồ đựng kích thước nhỏ, trang trí văn thừng, văn đan và dấu in vải. Gốm có xương màu xám pha cát mịn, dáng nồi nhỏ hay lọ có miệng xiên, độ nung cao. Hầu hết được chế tác bằng bàn xoay. Niên đại khoảng 3000 năm cách ngày nay.

– Di chỉ Cái Lăng thuộc địa phận xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch. Di chỉ được khai quật năm 2000. Niên đại khoảng 2900 – 2700 năm cách ngày nay. Đồ gốm Đồng Nai thu thập được trong đợt khai quật chiếm số lượng lớn gồm: những đồ gốm còn nguyên dáng có 1 dọi xe chỉ, 7 bi gốm, 10 mảnh cà ràng, 1 bát, 1 đĩa, 1 bàn dập, 11 chân đế, 1 nắp đậy; mảnh gốm có 172.383 tiêu bản. Có hai nhóm gốm: gốm thô và gốm mịn. Gốm thô có độ nung thấp, thành phần phôi gốm có trộn nhiều cát, sạn và một số ít chất phụ gia như tro mùn, bã thực vật và cả nhuyễn thể đã được nghiền vụn. Lớp áo gốm mỏng, có màu nâu, vàng nhạt hoặc màu đỏ. Kỹ thuật chế tạo bằng bàn xoay kết hợp  với nắn sửa bằng tay, dụng cụ bằng tre, gỗ. Nhóm gốm mịn có chất liệu đất sét mịn, chất phụ gia như cát cũng được lựa chọn kỹ. Lớp áo gốm thường có màu nâu, có khả năng được tạo từ lớp phủ quét hay tráng lớp bột mịn, sau đó được xoa và miết nhẵn. Độ nung cao và được tinh luyện nên chắc, cứng. Hầu hết, những mảnh gốm vỡ Cái Lăng là những vật dụng của con người cổ như đĩa, bát, vò có đáy tròn, đáy bằng và có chân đế.

Gốm Đồng Nai có hoa văn thu thập tại Cái Lăng ít nhưng đa dạng về loại hình. Các loại hoa văn được thể hiện như: đường vạch ngắn, đường viền và những đường viền ngang song song, các đường sóng kết hợp với đường vạch, hoạ tiết các hình tam giác, hình sao, hình chữ V, đường chéo, đường vạch lõm, mảnh nhọn, hình hạt đậu ấn lõm, miết vạch ô lưới hay đường cong… để  trang trí. Phần lớn, hoa văn được khắc vạch trên nền văn chải.

– Di chỉ Cái Vạn thuộc xã Long Thọ huyện Nhơn Trạch. Di chỉ được đào thám sát năm 1977 và khai quật lần thứ nhất vào năm 1978. Đồ gốm Đồng Nai thu thập được trên 1.000 mảnh. Hầy hết, đồ gốm được làm từ đất sét pha cát, hạt thạch anh và bả thực vật. Có hai nhóm gốm: loại gốm mịn có xương màu xám đen và xám hồng, lớp áo mịn màu xám đen và xám vàng; loại gốm xốp có khoảng 20%, xương gốm màu đen, nhiều bả thực vật, thường dày và thô. Đa số các mảnh miệng gốm thuộc loại loe với nhiều kiểu dáng. Chân đế có 3 loại: đế thấp, đế hình chóp ( loe xiên ), và đế hình trụ cao có phần dưới hơi choãi. Khoảng 30% mảnh gốm có hoa văn, được tạo bằng cách chải, dập thừng, khắc vạch và chấm dải. Văn khắc vạch có những đồ án khác nhau như hình tam giác nối nhau, hình sóng…Phần lớn các mảnh gốm bị vỡ từ những loại đồ dùng để đựng của cư dân cổ, ngoài ra còn có một số mảnh chân kiềng giống sừng bò và bi gốm.

Năm 1996, di chỉ Cái Vạn được khai quật lần thứ hai. Đồ gốm thu thập được trên 17.854 mảnh, gồm các loại: dọi xe chỉ ( số lượng 1), bi gốm ( số lượng 70, đường kích trung bình từ 1,2 – 2 cm, một bi gốm lớncó đường kính 5,3 cm ), núm và bàn xoa gốm ( số lượng 32, núm được vuốt nhọn với mặt cắt ngang hình tròn, bàn xoa có chuôi cầm gần thẳng hoặc cong, mặt phẳng hoặc hơi lượn cong ), mảnh cà ràng ( số lượng 736 ), gốm tròn ( số lượng 22), được ghè hoặc mài tròn, đường kính trung bình từ 3 – 5,5 cm ); mảnh gốm vỡ ( số lượng trên 15.953 ). Chất liệu gốm làm từ đất sét phù sa sông pha nhiều cát, bã thực vật và  bột vỏ nhuyễn thể. Có hai nhóm gốm: gốm cứng và gốm xốp trong đó, gốm cứng chiếm tỉ lệ cao. Hoa văn gốm khá phong phú như văn chải ( văn chải thô và mịn ) thường dùng que có rãnh tạo thành; văn thừng thường kết hợp với văn chải; văn khắc vạch và in ấn thường được tạo với các kỹ thuật chải, đập, miết. Những mô típ hoa văn như hình mũi giáo ( răng sói ), đường sóng nước, đường vạch chìm song song  được thể hiện trên đồ gốm Cái Vạn. Một số lượng lớn tiêu bản gốm được bâo phủ nhiều màu có tính chất trang trí, thể hiện trên nhiều vị trí của đồ đựng. Niên đại di chỉ Cái Vạn đươc xác định 3.360 + 80 năm cách ngày nay.

Di chỉ Bình Xuân thuộc xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, cách núi Chứa Chan khoảng 3 Km về phía Tây Bắc. Nhiều hiện vật của cư dân thời tiền sử được phát hiện, trong đó có nhiều mảnh gốm vỡ. Gốm Bình Xuân có chất liệu tố, pha nhiều cát và bả thực vật; trong đó có nhiều mảnh có lẫn những hạt thạch anh màu trắng, độ nung cao, độ cứng chắc. Xương gốm có màu đen hoặc xám nâu; mặt ngoài bị bào mòn khá nhiều, gồm ba loại cơ bản: đỏ nhạt, vàng và xám nâu. Một số mảnh gốm còn in dấu văn chải mịn. Đồ gốm chủ yếu là từ các loại miệng loe khum, mép nhọn; phần cổ thường được chế tác kiểu có gò nổi cao làm cho thành miệng lõm cong hình lòng máng. Một số ít mảnh thuộc các dạng miệng gốm loe phẳng hay ưỡn cong; một số miệng có mép đáy vo tròn – loại hình này thường xuất hiện phổ biến trong các di chỉ khác ở Đồng Nai. Niên đại đoán định khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II trứớc Công nguyên.

Di chỉ Đồi Mít thuộc ấp Bình Lộc xã Xuân Bình, thị xã Long Khánh ( cách di chỉ Suối Chồn khoảng 3 km về hướng nam và di chỉ Cầu Sắt  2 Ka Mài về hướng đông ). Đồ gốm Đồng Nai phát hiện tại Đồi Mít là những mảnh gốm vỡ vụn, có chất liệu tương đồng với gốm tại di chỉ Bình Xuân. Trong một số xương gốm thường có lẫn nhiều mảnh thạch anh, sạn sỏi. Loại gốm đỏ nhạt chiếm tỉ lệ nhiều hơn so với gốm vàng xám nâu. Các mảnh gốm dạng mịeng chủ yếu có hình loe đơn giản, mép miệng dày, được vuốt thành gờ phía ngoài và mỏng dần xuống phía cổ. Một số ít miệng gốm dáng đứng thẳng, cổ thắt thành ngấn; một số mảnh miệng gốm mép ve tròn và loe khum dáng hình lòng máng. Niên đại tương đồng di chỉ Bình Xuân.

Di chỉ Rạch Lá thuộc ấp Quới Thạnh, xã Phước An huyện Nhơn Trạch được khai quật năm 2002. Bên cạnh hiện vật đá, gỗ, đồ gốm Đồng Nai thu thập gốm các loại: bi gốm ( số lượng 8 ), mảnh cà ràng ( số lượng 1 ) và 508 mảnh gốm vỡ. Các mảnh gốm vỡ gồm nhiều loại, trong đó, gốm miệng ( số lượng 135 tiêu bản, miệng loe, mép vê tròn hoặc có gờ mái,  dáng miệg đứng ); chân đế ( số lượng 51 tiêu bản, gồm loại chân cao và chân thấp, đáy bằng); mảnh thân ( số lượng 322, kích thức nhỏ do bi phân rã ). Phần lớn là gốm thô, chất liệu sét pha nhiều cát, một số mảnh pha bả thực vật. Aó gốm màu nâu và xám nhạt. Độ nung cao và xương gốm cứng. Hoa văn trên các mảnh gốm chiếm tỉ lệ thấp, văn chủ yếu là văn thừng, khắc vạch, chấm dải với hoạ tiết các đường song song, gấp khúc chữ chi, đường cong lượn sóng, hình tam giác. Niên đại đoán định di xhỉ Rạch Lá vào khoảng 3.200 năm cách ngày nay.

Di chỉ Phước Tân nằm trên ngọn đồi thấp, có độ cao khoảng 25 m ở hữu ngạn sông Lá Buông thuộc địa phận xã Phước Tân huyện Long Thành. Bên canh hàng ngàn hiện vật đá có 615 hiện vật gốm Đồng Nai được phát hiện trên diện tích 2 héc ta. Đồ góm ở Phước Tân có một số loại như gốm đỏ thuần, đỏ nâu, đen và gốm xám vàng. Xương gốm có màu đen, trộn lẫn sạn latêrít, thạch anh, phen phát hoặc cát mịn. Hoa văn trang trí phần lớn là văn in hoặc những đường song song và cắt chéo nhau, hình tam giác hay răng sói (rất hiếm ) và những đường chấm dải; loại văn thừng có nhưng chiếm tỉ lệ thấp. Những mảnh gốm vỡ ở di chỉ là từ các loại nồi đáy tròn, bát bồng (loại nhỏ còn được gọi là cốc có đế loe ), bát tô…và hai bi gốm. Niên đại  của  chỉ Phước Tân được nhà nghiên cứu H.Fontaine đoán định vào khoảng 3.500 – 3000 năm cách ngày nay ( thời đại đồng thau ).

Di chỉ Hưng Thịnh thuộc địa phận xã Hưng Lộc huyện Thống Nhất. Đồ gốm Đồng Nai phát hiện qua các cuộc thám sát gồm có hai loại khác nhau về chất liệu. Loại bằng sét mịn, xương mỏng, đều, nhẵn; màu nâu đỏ, nâu hồng; miệng loe ( khum hoặc xiên ), chân đế thấp dạng hình trụ, hoa văn được in dập văn thừng mịn. Loại  bằng sét mịn pha nhiều hạt đá nhỏ màu trắng xám, áo gốm màu nâu nhạt, nâu đỏ, miệng loe khum hình lòng máng, loe khum và xiên, đế thấp hơi choãi cao, dáng tròn. Niên đại Hưng Thịnh được đoán định thuộc thời kỳ kim khí, vào khoảng 3.500 – 4000 năm cách ngày nay.

Di chỉ Suối Đá ( còn gọi là Hàng Gòn 9 ) thuộc địa phận Nông trường Hàng Gòn, cách thị trấn Xuân Lộc 10 km về hướng Tây Nam. Đây là khu mộ chum, nằm trên vùng đất đỏ ba zan, cạnh suối Gia Liêu. Di chỉ do nhà ngiên cứu E.Saurin phát hiện vào những năm 60 của thế kỷ XX. Tại đây có trên 60 chum gốm Đồng Nai, chiều cao từ 20 đến 150 cm. Chum gốm được phân thành 3 loại: loại có hông gần đáy, vành mép rộng, miệng loe; loại chum hình quả trứng được tạo do kỹ thuật dải cuộn, có hoạ tiết đường song song trên nền văn chải hình răng lược; loại chum có đát trũng, miệng loe, không có hoa văn. Ngoài ra còn có các hiện vật  gốm khác như: bình ( nhiều đáy bằng, đáy trũng, miệng hẹp và rộng, mép mỏng ), nồi ( miệng loe, vành mép thấp, có hoa văn ), cốc ( miệng tròn, đáy phẳng ), đĩa, chân đèn, nắp đậy, dọi xe sợi ( hình chóp cụt ), khoanh gốm ( dạng hình ống ). Niên đại 2.300 + 150 năm cách ngày nay.

Di chỉ Phú Hoà cách thị trấn Xuân Lộc 3 km về phía Nam, ven quốc lộ I. Trong thập niên 70, thế kỷ XX, nhà nghiên cứu H. Fontaine phát hiện 46 mộ chum bằng gốm Đồng Nai. Chum cao có chiều cao 75 cm, đường kính thân 40 – 80 cm, đáy hơi cong. Chất liệu làm chum từ sét pha cát hạt lẫn khoáng vật. Aó gốm được miết láng màu đỏ hồng, một số trang trí hình xoắn ốc tạo thành dải các chữ S nghiêng nối tiếp hoặc cách đều nhau. Ngoài 46 chum, hiện vật gốm còn có: nồi ( số lượng 7, đáy tròn, hoa văn trang trí hình răng sói ), bình cổ thắt ( dáng tròn và hình quả trứng ), đĩa ( số lượng 38, kích cỡ khác nhau, đáy bằng và uốn cong ), bát mâm bồng ( vỡ phần trên, hình trụ giữa và đế nón ), bi gốm ( số lượng 2, hình cầu và hình đĩa ), ống chỉ và một số mảnh chân đèn. Hoa văn gốm Phú Hoà được tạo bằng cách in dấu vải, chấm dải, miết láng hoặc những đường khắc vạch sâu ( phần đáy, bụng, cổ ); các hoạ tiết là đường băng song song, đường cong và nét gạch nhỏ, hình răng sói, đường xiên, đường lược sóng, hình chữ S. Niên đại trong khoảng 2.500 năm cách ngày nay.

Di chỉ Dầu Giây địa phận huyện Thống Nhất do E. Saurin phát hiện năm 1965. Bên cạnh số hiện vật đá thu được còn có 2 chum gốm không nắp và một số gốm vỡ. Dạng gốm từ các nồi có miệng loe đáy cong, bình cổ loe có vai, đĩa đáy phẳng hơi lõm, lọ nhỏ, chum bụng nở. Chất liệu gốm từ sét pha cát, than, bột tro bả thực vật và một số khoáng vật. Gốm được nung ở nhiệt độ cao, tạo dáng và trang trí bằng văn thừng, khắc vạch vơí các hoạ tiết vòng tròn, đường sóng nước, khuông nhạc, răng sói, xoắn ốc.

3. Tổng quan về đồ gốm Đồng Nai qua kết quả khảo cổ học

Loại hình: Trong những di chỉ khảo cổ học được thám sát, khai quật, hiện vật gốm Đồng Nai được phát hiện chiếm số lượng rất lớn. Trong đó, các tiêu bản gốm còn nguyên dạng chiếm tỉ lệ thấp, số mảnh gốm vỡ chiếm tỉ lệ cao. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã định dạng được nhiều loại hình. Hầu hết, các hiện vật gốm là từ những đồ dùng phục vụ cho cuộc sống của cư dân thời tiền sử.

            Các loại bình, hủ, vò: Loại bình, hủ còn nguyên dạng tìm thấy được trong các di chỉ khảo cổ rất hiếm.  Tại di chỉ Bình Đa, một chiếc bình phát hiện trên bề mặt di tích còn khá nguyên vẹn với dáng hình con tiện ( cao 22cm ), được chế tác bằng bàn xoay, độ nung cao. Nhiều mảnh vỡ gốm tại các di chỉ được định dạng là từ các đồ đựng như bình, hủ, vò chiếm số lượng khá nhiều. Các loại bình, hủ có nhiều kích cỡ, được làm từ sét pha bột nhuyễn thể, bả thực vật, cát và một số phụ gia khác với tỉ lệ vừa phải. Bình, hủ, vò thường có thân hình cầu dẹt hay quả trứng, đáy tròn, đáy bằng, đáy lõm; thân bình phình ở giữa, đôi khi có gờ ngấn, miệng loe. Riêng phần tạo dáng miệng rất đa dạng như: miệng khum, miệng loe, miệng loe xiên, loe choãi với các gờ đủ kiểu. Phần chân đế được tạo dáng đế bằng, đế choãi cao hoặc thấp.

            Nồi: Các mảnh gốm vỡ từ các loại nồi tìm thấy nhiều trong các di chỉ khảo cổ được thám sát, khai quật. Phần lớn chúng có kích cỡ vừa và nhỏ. Nồi có hai loại: loại miệng loe, mép tròn hoặc vuông, cổ thắt, bụng nở và thu hẹp dần về phía đáy, hoặc gãy khúc tạo thành phần hông; loại miệng loe hơi khum, cổ thẳng đứng, thân tròn đều hoặc gãy khúc tạo thành phần vai, đáy tròn, xương không dày. Nồi dùng trong việc đun nấu phục vụ nhu cầu ăn uống và dùng để nấu đồng nấu đồng ( di chỉ Gò Me : 1, Bình Đa: 3).

Chum: Hầu hết những chum gốm ( hay vò lớn ) được tìm thấy trong các di chỉ mộ táng thuộc thời đại kim khí như Dầu Giây, Hàng Gòn 9 ( Suối Đá ), Suối Chồn…Các tiêu bản chum thường có dáng hình cầu dẹt hay quả trứng, thân bụng nở, cổ thắt hẹp, miệng rộng, đáy hơi lồi tròn và gần phẳng. Chum có nhiều kích cỡ, chiều cao khoảng 40 – 60 cm, rộng ngang thân 40 – 50 cm. Màu sắc các loại chum khá đa dạng, xương có màu nâu, đen, lớp áo màu đỏ, hồng. Chất liệu từ sét pha cát thô thuộc laọi nham thạch thạch anh, phen xpát. Chum thường được cư dân cổ dùng để chôn người chết và đồ đựng sinh hoạt.

Bát: Các mảnh gốm vỡ trong nhiều di chỉ có một số được định dạng từ các loại bát. Loại bát nhỏ tìm thấy ở di chỉ Cầu Sắt, Phước Tân. Chúng có màu đỏ, đen; chất liệu gốm mịn, miệng loe, đế ghép thấp. Loại bát bồng ( còn gọi là “đậu”, bát chân cao) có ở một số di chỉ như Cầu Sắt, Bình Đa, Phước Tân, Gò Me…Chất liệu từ loại sét mịn, màu trắng hoặc đỏ. Phần trên có dạng hình đĩa, loe rộng, miệng hơi khum, đáy hơi lồi; phần trụ tròn cao nối với đế có hình chóp hơi choãi cong. Một số tiêu bản có văn đắp dải hay khắc vạch. Một số bát bồng tìm thấy trong di chỉ thời đại kim khí có hai cặp lỗ thủng gầm mép miệng; chiều cao từ 8 – 11 cm, đường kính miệng 15 – 22 cm, có loại nhỏ với kích cỡ cao 6- 8 cm, rộng miệng 10 – 13 cm .

Đĩa: Một số đĩa nhận dạng qua các gốm vỡ tìm thấy tại các di chỉ như Cái Lăng ( số lượng 1), Bình Đa ( số lượng 4 ), Phú Hoà… Chúng không còn nguyên vẹn nhựng phục dựng được từ các mảnh vỡ. Chiếc đĩa ở di chỉ Cái Lăng có miệng rộng, đáy nông, miệng loe xiên, mép miệng có trang trí hoa văn dày hơn phần thân, giữa miệng và thân có đường gấp khúc. Những chiếc đĩa tìm thấy ở di chỉ Bình Đa có hai loại: đáy nông và đáy sâu. Một chiếc đáy sâu có miệng tạo thành vành bẻ gần như nằm ngang, xương dày, đáy cong đều, giữa thân và đáy có sóng nổi tạo thành ngấn, bề mặt đĩa có phủ lớp áo mỏng màu nâu. Ba chiếc đáy nông đồng dạng, đáy gần bằng, miệng được vuốt tròn và gần nhọn, đế trơn. Hầu hết các đĩa được làm từ chất liệu sét pha nhiều bả thực vật, bột vỏ nhuyễn thể và cát thô, độ nung cao.

Một số đĩa là đồ tuỳ táng, được chôn trong các mộ chum. Số đĩa nguyên vẹn tìm thấy khá nhiều, được xem là sản phẩm đặc trưng của di tích mộ chum ở Đồng Nai. Riêng tại di chỉ Phú Hoà, theo thống kê của H.Fontaine có 36 đĩa, chia làm ba loại: loại nhỏ có miệng gần thẳng đứng hoặc hơi loe, gần đáy có đường gờ nổi, đáy hơi lồi, miệng rộng; loại vừa có vành miệng rộng, gần mép thường có` cặp lỗ tròn đối xứng nhau; loại lớn có thành miệng gần thẳng đứng, đáy hơi lồi hoặc phẳng.

            Bi:  Hầu hết các bi gốm có dạng hình cầu, được làm từ sét mịn, độ nung vừa, thường có màu đỏ nhạt hay nâu. Đặc biệt, tại di chỉ Cái Vạn có một bi gốm vơí đường kính đến 5,3 cm được xem là lớn nhất trong số những tiêu bản bi được phát hiện ở vùng Đông Nam Bộ. Bi gốm được phát hiện tại một số di chỉ như: Bình Đa ( số lượng 50 ), Cái Vạn ( số lượng 78 ), Rạch Lá ( số lượng 8 ), Cái Lăng ( số lượng 7 ), Gò Me ( số lượng 3 ), Phước Tân ( số lượng 2 ), Phú Hoà ( số lượng 2 )…Các bi gốm này còn được xem là đạn mà các nhà nghiên cứu cho rằng cư dân cổ dùng trong việc săn thú nhỏ.

Dọi xe chỉ: Số lượng tiêu bản loại hình dọi xe chỉ được phát hiện trong các di chỉ khảo cổ ở Đồng Nai rất hiếm. Theo các tài liệu công bố trước đây, một số dọi xe chỉ được phát hiện tại, Gò Me ( số lượng 1 ), Cái Vạn ( số lượng 1), Suối Chồn ( số lượng 2 ), Hàng Gòn 9 ( số lượng 2 ), Cái Lăng ( số lượng 1). Hầu hết các dọi xe chỉ có màu hồng nhạt xen lẫn với màu xám đen, hình nón cụt, có lỗ nhỏ xuyên qua chính giữa, mặt cắt ngang thân hình thang dẹt, không có hoa văn. Chất liệu làm từ đất nung pha nhiều cát. Các dọi xe chỉ là dụng cụ cho thấy cư dân cổ Đồng Nai đã biết đến nghề xe sợi, dết vải.

Bàn xoa gốm: Đây là dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng cho các sản phẩm là đồ đựng bằng gốm. Bàn xoa gốm được phát hiện khá nhiều tại các di chỉ như Bình Đa, Cái Vạn ( số lượng 32 ), Suối Linh ( số lượng 39, 60 chuôi cầm và trên 300 mảnh vỡ ), Cái Lăng, Suối Chồn…Bàn xoa gốm có dáng hình chiếc nấm, gồm có chuôi và bàn xoa. Phần chuôi là hình trụ dạng núm được vuốt nhọn hoặc hơi loe ( một số tiêu bản có lỗ thủng chính giữa ), phần bàn xoa hình cầu, mặt tương đối trơn nhẵn, hơi cong lồi; rìa mép có gờ hoặc vê tròn. Bàn xoa có nhiều kích cỡ khác nhau. Công dụng của bàn xoa làm khi tạo dáng sản phẩm làm cho bề mặt trong đều, phẳng, nhẵn và phôi gốm dược nén cứng. Bàn xoa thường được làm bằng sét pha nhiều cát hạt lớn, bột vỏ nhuyễn thể, bã thực vật, sỏi sạn và lẫn vẩy mica. Chúng được làm bằng tay, độ nung cao, xương cừng chắc.

Mảnh gốm tròn: Trong số hàng nghìn mảnh gốm vỡ được phát hiện tại nhiều di chỉ khảo cổ trên đất Đồng Nai, trong đó có những mảnh gốm tròn với một tỷ lệ nhỏ. Hầu hết các mảnh gốm này từ những mảnh gốm vỡ của đồ đựng được đem mài, ghè tạo dáng hiình tròn với nhiều kích cỡ khác nhau. Trên bề mặt những mảnh gốm tròn vẫn còn giữ nguyên những áo gốm và hoa văn trang trí. Có mảnh được khoan thủng lỗ chính giữa. Các di chỉ phát hiện mảnh gốm tròn gồm: Suối Linh ( số lượng 1), Bình Đa ( số lượng 11 ), Cầu Sắt  ( số lượng 16 ), Cái Vạn ( số lượng 39 )…Cho đến nay, chưa xác định công dụng của loại di vật này. Có thể, các mảnh gốm tròn được dùng để trang trí vàv các mảnh có khoan lỗ để trang sức như đeo vào người hay vật.     

Cà ràng: Đây là một dạng bếp của cư dân cổ. Mỗi “ cà ràng ” có ba chân gắn với một bàn đế. Bàn đế thường có hình tròn, đáy hơi lồi, xung quanh có bờ che vừa. Các chân “ cà ràng “ được tạo dáng trụ tròn, thân hơi cong hoặc dẹt, đầu gắn đế tròn bằng, đầu trên hơi vuốt nhọn giống cái sừng bò( cho nên chúng còn có tên gọi là gốm sừng bò. Các chân “ cà ràng ” gắn lên chân đế theo kiều kiềng ba mà vị trí cách đều, thân hơi ưỡn ra, phía đầu chum vào vừa phải để nâng vật đun nấu mà chủ yếu là các loại nồi. Loại di vật “ cà ràng “ được tìm thấy ở một số di chỉ như: , Rạch Lá ( số lượng 1 ), Phước Tân ( số lượng 1), Suối Chồn ( số lượng 10 ), Cái Lăng (số lượng 10 ), Bình Đa ( số lượng 12 ), Cái Vạn ( 762 )…Các chân “ cà ràng ” có nhiều kích cỡ khác nhau, có lẽ tương thích với các bàn đế mà cư dân cổ chủ đích tạo dáng. Chất liệu làm từ sét pha nhiều bả thực vật, xương màu xám, đen hoặc xám đen. “ Cà ràng “ được xem là một loại vật dụng độc đáo của cử dân cổ ven sông nước.

Chất liệu và kỹ thuật chế tác: Trong các loại sản phẩm gốm được tạo nên qua các thời đại phát triển của con người, mọi vùng lãnh thổ, thành phần nguyên liệu chính yếu vẫn là đất sét. Hầu hết, các loại sản phẩm gốm của cư dân cổ Đồng Nai được chế tác từ chất liệu đất sét sẵn có trên địa bàn. Phụ thuộc vào địa bàn cư trú của cư dân cổ mà họ khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ để làm nên sản phẩm gốm dùng trong sinh hoạt. Với đặc điểm này, chúng ta có thể nhận thấy hiện vật gốm phát hiện tại các di chỉ cùng trên địa bàn cư trú có những nét tương đồng về sử dụng chất liệu sét, các chất phụ gia có trong từng sản phẩm gốm các loại. Các địa bàn cư trú khác nhau thì chất liệu sét dùng làm gốm phụ thuộc vào yếu tố thành phần hoá học sét tại chỗ. Cũng chính từ yếu tố này và phụ thuộc vào kỹ thuật chế tác, chủ đích làm sản phẩm mà tỉ lệ các loại gốm trong từng di chỉ có sự khác biệt. Mặc dầu, có những di chỉ được xem là loại hình di chỉ xưởng – nơi chế tác đồ đá, đồ gốm, thì sự trao đổi giữa các địa bàn rộng chưa đáng kể, chỉ phục vụ cho cộng đồng, nhu cầu của một địa bàn với quy mô vừa phải. Vì qúa trình trao đổi, giao lưu còn phụ thuộc nhiều vào đặc điểm địa lý của môi trường và điều kiện phát triển kinh tế mỗi cộng đồng cư dân cổ.

Chúng ta có thể hình dung về chất liệu để chế tác nên sản phẩm gốm cổ ở Đồng Nai chủ yếu gồm các thành phần sau: đất sét là thành phần chính; các chất phụ gia thường thấy là: bả thực vật, bột vỏ nhuyễn thể, bột tro, cát, sỏi sạn và các khoáng vật tự nhiên. Riêng về nguồn nguyên liệu chính là đất sét thì phụ thuộc vào nơi chúng được khai thác.

Đồ gốm di chỉ Cầu Sắt ( xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh ) được nhìn nhận như là đồ gốm cổ nhất ở Đồng Nai và cả vùng Nam Bộ. Nguồn nguyên liệu  để làm nên các sản phẩm gốm Cầu Sắt thuộc nhiều loại, chủ yếu từ đất sét núi và phù sa sông ( yếu tố vi lượng kẽm là 0,01%, phốt pho 0,1%), có loại sét cao lanh với thành phần chính là thạch anh, phen –xphát, một số khoáng vật như caolinit hiện diện trong sản phẩm khi chế tác nhưng bị huỷ trong quá trình nung; chất phụ gia gồm có cát, bã thực vật, hạt đá. Các di chỉ trên địa bàn vùng đồi núi, đất đỏ ba zan như Cầu Sắt, Núi Gốm, Hàng Gòn, Dầu Giây, Phú Hoà…thì nguồn nguyên liệu chính là sét núi ( chiếm tỉ lệ 70 % ), chất phụ gia là sa thạch khá đa dạng. Đồ gốm di chỉ Bình Đa làm từ đất sét lọc kỹ, có pha thêm cát mịn, vỏ nhuyễn thể được nghiền nát, một tỉ lệ nhỏ bột đá màu trắng và bã thực vật. Tại di chỉ Suối Linh, Suối Chồn, Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Phước Tân… hầu hết  đồ gốm cũng có những nét tương đồng về chất liệu với gốm Bình Đa, đặc biệt có thêm chất phụ gia như trò bùn; có thể chất này có sẵn trong sét phù sa sông ( khu vực hạ lưu sông Đồng Nai ) hay được cư dân thêm vào trong chế tác.

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thành phần hoá học, phương pháp quang phổ về chất liệu gốm cổ ở Đồng Nai, một số nhà nhà khoa học cho biết những khoáng vật phụ gia trong gốm cổ Đồng Nai có thể khai thác từ nhiều doi cát phù sa ven các sông, suối bắt nguồn từ hướng Đông Bắc của địa hình chảy qua những vùng có hoặc không phủ ba zan đến Xuân Lộc – Long Khánh. Phụ gia bắt nguồn từ nhiều nguồn khoáng vật như: khoáng gốn ba zan ( gồm olivine, fero-magésien, spinelle liménite ); khóng gốc granit ( gồm hornbleinde, zircon, mica, rulite, micro-granit, rhyolite/ quartz, corrodes ); đá biến chất ( staurtile); đá trầm tích ( grès, latérite- écomicte ferrogineux, felsat…). Phụ thuộc vào nguyên liệu và tỉ lệ pha chế các chất phụ gia và trình độ kỹ thuật chế tác mà tạo nên độ bền của một sản phẩm gốm.

Gốm cổ Đồng Nai trong các di chỉ khảo cổ học được chế tác bằng kỹ thuật bàn xoay chiếm vai trò chủ đạo và phối hợp với các thao tác kỹ thuật bằng tay trong nhiều công đoạn. Những loại hình hiện vật gốm chế tác thuần bằng tay chiếm tỉ lệ nhỏ. Dấu vết của kỹ thuật chế tác bằng bàn xoay thể hiện rõ nét từ vết mờ hay đường chỉ viền ngang phần đáy, miệng của những trên nhiều tiêu bản hiện vật gốm được phát hiện. Ngoại trừ các thao tác trong khâu chọn nguyên liệu, phụ gia thì các kỹ thuật thao tác bằng tay như dải cuộn ( tạo phôi ), nặn vuốt ( dáng mép miệng, tạo gờ, xoa bề mặt, miết láng… ), kỹ thuật hòn dập – bàn kê, kỹ thuật gắn kết chân đế, chải, khắc, tô màu…trong chế tác sản phẩm gốm thể hiện ở công đoạn tạo hình, tu chỉnh bề mặt, trang trí hoa văn.

Trên góc độ chính từ chất liệu và kỹ thuật chế tác, các nhà nghiên cứu đã phân ra làm các loại gốm chính trong các di chỉ khảo cổ học là gốm mịn,  gốm thô và gốm xốp. Điều này phụ thuộc vào khâu chọn nguyên liệu chính, tỉ lệ chất phụ gia và độ nung. Loại gốm mịn được chế tác với khâu nguyên liệu được tuyển chọn kỹ với chất liệu sét mịn, chất phụ gia chủ yếu là cát hay hoặc một số chất khác cũng được sàng lọc kỹ ( hạt mịn, nhỏ ), độ nung cao nên có độ cứng chắc đảm bảo. Loại gốm thô thì chất liệu không tuyển chọn kỹ ( kích cỡ hạt lớn ) và độ nung thấp; loại gốm xốp thì tỉ lệ chất phụ gia như bã thực vật, tro mùn…chiếm tỉ lệ khá lớn, độ nung thấp nên chúng dễ bị thấm nước, không có độ bền.

Hoa văn: Hoa văn trang trí trên sản phẩm gốm cũng là  một tiêu chí để phân loại gốm: gốm có hoa văn và không có hoa văn ( gốm trơn ). Tại các di chỉ khảo cổ học Đồng Nai, hai loại gốm này đều được phát hiện nhưng tỉ lệ giữa chúng trong các di chỉ khác nhau. Hoa văn được thể hiện trên bề mặt của nhiều loại tiêu bản gốm và với chủ đích của người chế tác. Có những tiêu bản thể hiện nhiều hoa văn phong phú nhưng cũng có những tiêu bản được thể hiện một dạng hoa văn trang trí.

            Văn chải: được tạo nên từ những que dẹt dập tua đầu hay nhiều răng khá đều để chải bề ngoài phôi gốm tạo thêm độ cứng và tăng độ bám của áo gốm phủ ngoài. Vết rãnh chải thường sâu, chạy theo nhiều chiều ( dọc, xiên, cắt ngang hay chéo nhau ).

            Văn thừng: được tạo từ những bàn dẹt có cuốn dây thừng có nhiều kích cỡ khác nhau đập, lăn lên phôi gốm và bề mặt để tạo độ cứng, chắc cho sản phẩm. Văn thừng thể hiện trên gốm theo nhiều chiều khác nhau và thường bố trí kết hợp  văn chải.

Văn khắc vạch: được tạo nên từ các que, thẻ đầu nhọn hay tròn hoặc tạo răng với kích cỡ nhỏ, vừa. Văn khắc vạch thường thể hiện trên nền văn thừng, khá đa dạng với các đồ án trên nhiều phần bề mặt của sản phẩm.

            Văn in chấm, in dải: Tạọ nên từ các que hay thẻ hoặc đầu ngón tay được sử dụng theo chủ đích của người thợ như in từng chấm rời, nối tiếp nhau hay từng dải vạch chấm hay các dải đường ngang, thẳng, chéo, xiên nhau, song song hoặc các hình học…vào phôi gốm.

            Văn dập: được tạo nên từ các vật phẩm như tấm nan tre, nan chiếu có sẵn những đường gờ nổi, hay các hình hình học. Người thợ dùng dập vào phôi gốm. Một số ý nhiều ý kiến cho rằng văn dập là vết tích của việc  gốm khi vừa tạo dáng ( còn ướt ) được phơi trên những vật phẩm nói trên.            

            Văn đắp nổi: được tạo từ những dải đất sét tạo thành gờ, dải băng dài hay ngắn với nhiều kích cỡ, chế tác rời và đắp vào mặt gốm. Văn đắp nổi thường được gắn vào  mặt gốm chủ yếu ở  vai gốm thường thấy ở các laọi chum, vò.

Văn khoét – miết: được tạo bằng que dẹt có đầu bằng hay chỉ đơn thuần bằng ngón tay người chế tác ấn lên mặt trong của cổ gốm ( nơi tiếp giáp gữa phần cổ và thân, vai ) trên nền văn chải, văn thừng. Những rãnh hình lòng máng, những băng miết láng song hành với các dạng văn khác có tính chất trang trí cho sản phẩm.

Những đồ án, hoạt tiết hoa văn trên gốm cổ Đồng Nai rất phong phú, đa dạng. Chúng được thể hiện trên các bề mặt của sản phẩm như: các đường vạch, chỉ chìm hay chấm ( thẳng, song song, xiên, chéo nhau, cong, đường xoáy trôn ốc, đường lượn sóng, đường gãy rời nối tiếp nhau…), hình hình học ( tam giác/ răng sói, hình thoi, hình vuông / dạng ô lưới, nửa hình tròn, hình khuôn nhạc, hình bầu dục, hình răng cưa, hình hoa thị, hình sao…); hình chữ ( chữ V, chữ S ). Các đồ án, hoạ tiết được phối kết với nhau  từ một đến nhiều các loại văn, hoạ tiết được được thể hiện bằng nhiều kiểu ( nổi, chìm, lồi hay lõm, liên kết, cách rời…) tạo nên những mảng trang trí rất độc đáo trên bề mặt của sản phẩm gốm.

Ngoài các hoa văn được dùng trong trang trí gốm, trong gốm cổ Đồng Nai có xuất hiện loại gốm phủ màu hoặc bôi màu trang trí. Những dạng loại gốm này chiếm tỉ lệ vừa phải trong tỉ lệ các tiêu bản gốm phát hiện được tại các di chỉ khảo cổ. Riêng về loại gốm phủ màu để xử lý bề mặt trước khi nung chiếm tỉ lệ cao hơn dạng gốm bôi màu trang trí. Những bề mặt sản phẩm gốm phủ màu thường thấy rất đa dạng như màu nâu, nâu đỏ, đỏ nhạt, xám nhạt, xám sẫm, vàng, vàng nhạt, trắng đục, đen…Về màu phủ áo gốm có những ý kiến cho rằng đó là một dạng nhựa thực vật hoặc một loại khoáng chất được hoà vào trong nước pha đất loãng để xử lý trên bề mặt. Về dạng gốm có bôi màu trang trí chiếm tỉ lệ vừa phải trong số tiêu bản gốm và di chỉ khảo cổ được khai quật mà trong đó tiêu biểu là số tiêu bản thu thập được tại di chỉ Bình Đa. Về mặt kỹ thuật, lớp màu áo gốm trang trí cũng được thực hiện trước khi nung, có tác dụng làm bóng láng bề mặt sản phẩm bên trong và bên ngoài nhưng chủ yếu là thể hiện nét thẩm mỹ của sản phẩm. Những sản phẩm gốm bôi màu trang trí thì bề mặt thường để trơn, rất hiếm sự kết hợp với các thủ pháp tạo hoa văn. Loại gốm bôi màu trang trí có những nét khác biệt là chúng được thể hiện có thể trên khắp bề mặt trong và ngoài hay từng bộ phận của sản phẩm. Màu sắc của màu bối trang trí cũng đa dạng nhưng chủ yếu là nâu, đen, đỏ tươi với các sắc độ khác nhau. Ngoài tính chất trang trí mỹ thuật thì màu bôi trang trí còn tác dụng tăng thêm độ bền của sản phẩm gốm.

***

Qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học nói chung, có thể thấy rằng vùng đất Đồng Nai là một trong những địa bàn hình thành và phát triển của những cộng đồng cư dân cổ. Trong quá trình tồn tại, cư dân cổ Đồng Nai đã thích ứng với môi trường địa – sinh thái và không ngừng sáng tạo để phát triển. Cư dân cổ Đồng Nai đã biết đến những nghề thủ công mà trong đó có nghề làm gốm với một trình độ kỹ thuật nhất định để thích ứng trong những điều kiện phát triển theo chiều hướng tích cực. Những di chỉ khảo cổ với số lượng hiện vật gốm được phát hiện trên các tiểu vùng địa lý đặc trưng cho thấy một sự phát triển về nghề làm gốm để phục vụ cho đời sống kinh tế xã hội nguyên thuỷ kể từ khi con người biết đến chăn nuôi và trồng trọt. Những sản phẩm từ nghề làm gốm với những công năng, công dụng đã tạo điều kiện thuận lợi nhiều mặt cho cư dân cổ từ vùng đồi núi hay đồng bằng, vùng cận biển trong chu kỳ vòng đời người của cá nhân cũng như sự tồn tại nói chung của cộng đồng. Tính chất đáp ứng nhu cầu cho cộng đồng và sự trao đổi, liên hệ giữa các cộng đồng thể hiện qua những di chỉ được đánh giá là di chỉ xưởng chế tác công cụ đá, gốm. Điều này phản ánh những bước tiến về trình độ nhận thức, khả năng sáng tạo và chiều kích kinh tế, xã hội của cộng đồng cư dân cổ.

Với niên đại đoán định của di chỉ Cầu Sắt từ 5.000 – 4.000 năm cách ngày nay thì có thể thấy rằng cư dân cổ Đồng Nai đã biết chế tác đồ gốm từ thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên. Đồ gốm phát hiện tại di chỉ Cầu Sắt rất đa dạng và được xem là hoàn thiện về các thao tác kỹ thuật chế tác gốm của con người cổ. Qua xem xét các sưu tập hiện vật gốm trong các di chỉ khảo cổ theo trục thời gian và mở rộng trên các địa bàn khác nhau: từ Cầu Sắt, Suối Linh, Núi Gốm…ở vùng cao cho đến Bình Đa, Gò Me…ở vùng ven sống hay Cái Vạn, Rạch Lá, Cái Lăng…vùng cận biển và ngược lên vùng đất đỏ ba zan Xuân Lộc, Phú Hoà, Dầu Giây, Suối Chồn… các nhà nghiên cứu ghi nhận được sự biểu hiện đa dạng, phong phú trong giai đoạn đầu và dần về sau hình thành một truyền thống gốm khá ổn định bắt đầu từ thời đại đá mới – đồng của cư dân cổ Đồng Nai / nghĩa là có một truyền thống chế tác gốm mang phong cách của cộng đồng người cổ Đồng Nai. Đặc trưng của truyền thống gốm Đồng Nai thời cổ là sự đa dạng về chất liệu, màu sắc, sự phong phú về, kiểu dáng, rắn chắc về chất lượng, mộc mạc trong trang trí, ổn định trong loại hình và dồi dào về số lượng. Đồng thời, ngoài những đặc trưng chung đã ổn định thành biểu hiện của truyền thống những đồ gốm cổ Đồng Nai có những sắc thái khác lạ tạo nên những nét chấm phá và sự sáng tạo cũa những nghệ nhân chế tác gốm như gốm được tô hay vẽ màu.

 Ths. Phan Đình Dũng

Tài liệu tham khảo

1. Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng. Khảo cổ Đồng Nai, Nxb Đồng Nai 1991.

2.Viện KHXH tại Tp.HCM, Bảo tàng Đồng Nai. Báo cáo khai quật di tích Khảo cổ học Cái Vạn.

3. Viện Khảo cổ học , Bảo tàng Đồng Nai. Báo cáo khai quật di tích Khảo cổ học Rạch Lá, Hà Nội 2002.

4. Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Văn Long. Điều tra và khai quật lần thừ hai di tích khảo cổ học Bình Đa, Năm 1993.

5. Trần Văm Dũng , Hà Văn Cẩn. Báo cáo điều tra thám sát khảo cổ học ở một số tỉnh miền Đồng Nam Bộ năm 2000 – 2001.

6. Lưu Văn Du, Nguyễn Đăng Hiệp Phố. Đồ gốm di chỉ Cái Vạn qua tài liệu khai quật lần II, năm 1976. T/c Khảo cổ học số 4/ 1998.

7. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Khảo cổ học. Báo cáo khai quật di chỉ khảo cổ học Cái Lăng lần thứ nhất, năm 2000, Hà Nội 2001.

8. Lê Xuân Diệm. Điều tra di tich khải cổ học Hưng Thịnh, năm 1977. Tài liệu Bảo tàng Đồng Nai.

9.Vũ Quốc Hiền, Phạm   Quốc Quân, Lưu Thành Mỹ. Khai quật di tích Suối Chồn đợt II ( tháng 4/ 1979 ), năm 1979. Tài liệu Bảo tàng Đồng Nai.

10. Địa chí Đồng Nai, tập III, Lịch Sử, Nxb Tổng hợp Đồng Nai 2001.

Nguồn: http://dongnai.vncgarden.com/van-hoa-dhong-nai/4-dho-gom-tien-so-su-dhong-nai-qua-ket-qua-nghien-cuu-khao-co-hoc

Văn hóa Sa Huỳnh nhìn từ văn hóa Đồng Nai

Hai nền văn hóa Sa Huỳnh và Đồng Nai đều có niên đại khỏang 3500 đến 2000 năm cách ngày nay. Cùng với văn hóa Đông Sơn, ba nền văn hóa này đã trở thành 3 trung tâm văn hóa thời Kim khí trên đất nước ta, vừa có những nét chung nhưng đồng thời cũng có những đặc trưng khác biệt, làm nên sự đa dạng của những khu vực văn hóa tộc người trong bối cảnh Đông Nam Á thời cổ.

Bát gốm – Văn hóa Sa Huỳnh

Từ những nghiên cứu về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai giai đoạn sơ kỳ sắt, bài viết nhìn lại sự tương đồng và khác biệt cơ bản nhất về các di tích mộ chum của hai nền văn hóa này, góp phần làm rõ hơn sự phong phú đa dạng của các nền văn hóa tiền – sơ sử Việt Nam.

Bài viết gồm 2 phần:

– Khái quát về văn hóa Đồng Nai và văn hóa Sa Huỳnh

– Mộ chum trong văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai: những tương đồng và khác biệt.

1. Khái quát về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai

1.1  Văn hóa Sa Huỳnh phân bố ở khu vực miền Trung

phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 3500 năm đến những thế kỷ trước sau Công nguyên. Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của mộ huyệt đất. Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng trưng”.

Mộ chum – văn hóa Sa Huỳnh

Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình: công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức… Đặc trưng về di vật là sự phổ biến của công cụ lao động và vũ khí bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch, đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú… Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn).

Đồ gốm – văn hóa Sa Huỳnh

Có thể nhận biết trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh là khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi. Khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận những di tích và di vật thời tiền – sơ sử mới được phát hiện và nghiên cứu từ sau năm 1975. Cho đến nay số lượng di tích và di vật ở khu vực này chưa nhiều lắm song đã thể hiện tính chất và diện mạo của “văn hóa Sa Huỳnh” có phần khác biệt so với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Chămpa. Văn hóa khảo cổ ở đây có những nét độc lập nhất định so với vùng trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh. Ngay từ giai đoạn đồ đồng ở  khu vực Khánh Hòa đã phân lập được một văn hóa khảo cổ là “văn hóa Xóm Cồn”. Đến giai đoạn muộn sơ kỳ thời đại Đồ Sắt, ở một số di tích mộ vò ở Nam Trung bộ như Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ, Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò Sa Huỳnh điển hình và thậm chí còn có những yếu tố gần gũi với văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam bộ như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt và than tro hiện hữu trong chum, vò táng…

Như vậy, văn hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là “Sa Huỳnh cổ điển” vào sơ kỳ đồ sắt cần được hiểu là kết quả hội tụ sự phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn thuộc thời Đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 trước công nguyên). Ngoài ra những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây cũng góp phần chứng minh cho sự phát triển “văn hóa đa tuyến” ở khu vực miền Trung: văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk, Đăk Nông… đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có “yếu tố Sa Huỳnh” trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ tùy táng chôn theo. Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng, vừa độc lập với nhau vừa có mối giao lưu, cùng tham gia vào quá trình đưa văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ Đồ Sắt (khoảng 500 năm trước Công nguyên đến đầu công nguyên).

Đây cũng là hiện tượng và quy luật chung của các văn hóa thời đại kim khí như văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc với các tuyến phát triển ở lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, văn hóa Đồng Nai với các tiểu vùng phù sa cổ Đồng Nai, lưu vực Vàm Cỏ và vùng ngập mặn ven biển Đông Nam Bộ.

1.2.Văn hóa Đồng Nai phân bố ở miền Đông Nam bộ

địa giới hành chánh ngày nay là các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương. Đồng Nai, TP.Hồ Chí` Minh, Bà Rịa- Vũng Tàu. Về mặt địa lý-địa hình đây là vùng đất cao trải dài từ cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh thấp dần xuống đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Vì vậy phạm vi phân bố của văn hóa Đồng Nai thời tiền sử bao gồm lưu vực các con sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ đông-tây. Trên một địa bàn rộng lớn đó các di tích khảo cổ văn hóa Đồng Nai tập trung trong 3 khu vực địa hình:

– Khu vực đồi đất đỏ bazan và cao nguyên đất xám phù sa cũ: Các di tích ở đây có diện phân bố rộng, tích tụ văn hóa dày, hiện vật vô cùng phong phú chủ yếu là đồ gốm và công cụ đá. Tiêu biểu là cụm di tích Xuân Lộc – Đồng Nai, di tích thành tròn ở Lộc Ninh – Bình Phước.

– Khu vực phù sa cổ hạ lưu sông Đồng Nai: nhiều di tích phân bố dày đặc như nơi cư trú, nơi chế tạo các loại công cụ và đồ dùng sinh hoạt, các khu mộ táng với nhiều táng thức khác nhau… Các di tích nổi tiếng ở đây là Cù Lao Rùa, Dốc Chùa, Bưng Sình (Bình Dương), Bình Đa, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me…(Đồng Nai), An Sơn, Rạch Núi, Lộc Giang…(Long An).

– Khu vực ven biển Đông Nam bộ: đây là vùng đất thấp trũng ngập mặn, chịu ảnh hưởng thường xuyên của chế độ bán nhật triều, phần lớn diện tích là rừng sác. Di tích cư trú và mộ táng rải rác trên các gò, giồng đất cao hoặc ven các bưng lầy, di vật ở đây rất đa dạng và độc đáo thể hiện những mối quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi. Độc đáo nhất là hệ thống di tích ở huyện Cần Giờ – TP.HCM trong đó có di tích mộ chum Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ, các di tích vùng bưng lầy Bà Rịa-Vũng Tàu như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn, Cái Lăng, Giồng Nổi, Gò Me, Giồng Lớn…

Những cuộc khai quật khảo cổ học từ sau năm 1975 đã đưa lên từ lòng đất hàng trăm ngàn di vật với nhiều chất liệu khác nhau. Đồ đá là di vật phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất, đồng thời cũng là loại công cụ, vũ khí tồn tại lâu dài đến cả giai đoạn về sau, do sự khan hiếm của quặng kim loại. Loại hình công cụ phổ biến là rìu, cuốc, dao hái, “Qua đá”, đục, mũi tên, … được chuyên môn hóa về chức năng. Đồ trang sức nhiều nhất là các loại vòng đeo tay, đeo tai. Đặc sắc nhất vẫn là những bộ đàn đá được tìm thấy trong địa tầng di tích khảo cổ học ở Đồng Nai, Bình Phước đã khẳng dịnh sự ra đời và tồn tại của loại nhạc cụ cổ truyền  này ở lưu vực Đồng Nai từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay.

Di vật kim lọai phổ biến gồm đồ đồng chế tạo bằng phương pháp đúc trong khuôn hai mang “liên hoàn”: Rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu, lao có ngạnh… Tại di tích Long Giao (Đồng Nai) còn tìm thấy một kho “qua đồng”- một loại vũ khí  cổ phổ biến cả trong văn hóa Đông Sơn. Gần đây còn tìm thấy một số trống đồng “kiểu Đông Sơn” được sử dụng làm nắp đậy những ngôi mộ chum bằng gỗ ở di tích Bưng Sình- Phú Chánh (Bình Dương). Đồ sắt không nhiều chủ yếu là vũ khí như giáo, lao… thường tìm thấy trong mộ táng.

Đồ gốm và nghề làm gốm rất phát triển, các loại đồ dùng trong sinh hoạt như nồi, bát đĩa chân cao, bình, bếp lò… có mặt trong tất cả các di tích khảo cổ. Ngoài ra còn có nhiều dụng cụ bằng gốm như bàn xoa, dọi se sợi, chì lưới… Ngoài các chất liệu chủ yếu trên trong văn hóa Đồng Nai còn tìm thấy những di vật bằng gỗ, xương, sừng hay mai rùa… làm công cụ và đồ trang sức.

Giai đoạn muộn của văn hóa Đồng Nai xuất hiện những di tích mộ táng với táng thức chủ đạo là “mộ chum”: di cốt được chôn  nguyên vẹn hoặc than tro hỏa táng trong những chum, vò lớn bằng gốm hay bằng gỗ, cùng nhiều đồ tuỳ táng có giá trị như trang sức đá ngọc, mã não, thủy tinh, giáo sắt, đồ gốm minh khí… nổi bật là bộ sưu tập 32 “khuyên tai hai đầu thú” tại di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ, số lượng nhiều nhất được tìm thấy trong các “văn hóa mộ chum” ở Việt nam và Đông Nam Á.

Phương thức kinh tế chính của cư dân cổ Đồng Nai  là nông nghiệp ruộng khô (nương rẫy dùng cuốc) kết hợp với khai thác tự nhiên như đánh bắt cá, hái lượm… đồng thời phát triển các nghề thủ công. Tuy nhiên, tại vùng cửa sông Đồng Nai đã xuất hiện những dấu tích của một nhóm cư dân đặc biệt sinh sống bằng nghề trao đổi buôn bán, đó là chủ nhân các di tích mộ chum ở Cần Giờ-TP.HCM. Trong khoảng 2500-2000 năm cách ngày nay Cần Giờ đã từng là một “cảng thị sơ khai” phát triển thương mại qua đường sông, đường biển với nhiều nơi như với khu vực văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, các đảo ở Philippine, Indonesia, đặc biệt quan hệ kinh tế-kỹ thuật với Ấn Độ đã thể hiện rõ nét từ rất sớm.

Trong thời đại kim khí lưu vực Đồng Nai là một trung tâm nông nghiệp sầm uất, nơi quy tụ lượng tài vật khá lớn của cả phần nam bán đảo Đông dương. Hàng chục di tích khảo cổ học phân bố dày đặc dọc đôi bờ Đồng Nai, trên cả những cù lao và kéo dài đến vùng ven biển. Dấu tích cư trú lâu dài, ổn định và phong phú của con người thể hiện trên số lượng di vật rất lớn, nhiều loại hình và phản ánh được các đặc trưng văn hoá, đặc trưng kỹ thuật của các cộng đồng người ở đây. Những xưởng thủ công lớn sản xuất nhiều loại vật dụng cho cuộc sống của con người như đồ gốm, công cụ đá, khuôn đúc và công cụ kim loại, đồ trang sức bằng đá mà số lượng sản phẩm đã vượt qua mức độ tự cung tự cấp. Miệt Vàm Cỏ cư dân cổ cũng tạo lập cuộc sống định cư trên những “núi đất” giữa vùng lầy trũng, tại đó  phong phú công cụ sản xuất bằng đá, đồ dùng bằng gốm, đặc biệt nhiều loại công cụ xương thú và vỏ nhuyễn thể. Dù mối quan hệ giao lưu giữa Vàm Cỏ và Đồng Nai phát triển trên quy mô lớn và đã rất thường xuyên, nhưng cư dân Vàm Cỏ vẫn có lối sống và sản phẩm văn hoá mang bản sắc riêng. Văn hóa Đồng Nai phát triển trong thiên niên kỷ I-II trước Công Nguyên đã được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Truyền thống văn hóa Đồng Nai cùng với một số yếu tố văn hóa “ngoại sinh” do cư dân cổ Đồng Nai tiếp thu đã trở thành những yếu tố quan trọng để hình thành nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử kế tiếp– thế kỷ I-VII sau Công nguyên.

2. Di tích mộ chum trong văn hóa Đồng Nai, những tương đồng và khác biệt so với văn hóa Sa Huỳnh.

Những đối sánh sau đây trên cơ sở tìm hiểu giai đọan phát triển cao nhất của hai văn hóa này, giai đọan sơ kỳ đồ sắt từ nửa sau thiên niên kỷ I trước CN đến đầu CN. Tiêu biểu là nhóm mộ chum ở Cần Giờ – TPHCM.

2.1 Cần Giờ nằm ở phía Đông Nam và là cửa ngõ đi ra biển Đông của TP Hồ Chí Minh

là một phần của miền Đông Nam Bộ thành tạo do dòng chảy của sông Cửu Long cổ. Với diện tích khoảng gần 700 km2 được bao bọc bốn phía bởi sông và biển ( phía Bắc là sông Nhà Bè và sông Lòng Tàu, phía Đông là sông Đồng Tranh và sông Thị Vải, phía Tây là sông Soài Rạp và phía Nam là biển Đông). Trên vùng đất sình lầy ven biển này đã có một thảm thực vật kiểu rừng nước mặn phát triển phong phú – nổi danh với địa danh Rừng Sác. Từ đầu nguồn chảy xuống, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn hợp lưu ở Nhà Bè rồi lại tách ra làm hai đổ xuôi ra biển: từ đây, sông Sài Gòn được gọi là sông Lòng Tàu đổ ra biển bằng cửa chính là cửa Cần Giờ ở vịnh Rành Gái; sông Đồng Nai được gọi là sông Soài Rạp, hợp lưu với sông Vàm Cỏ ( Đông – Tây)  đổ ra biển bằng cửa Soài Rạp ở vịnh Đông Tranh. Cả hai sông Sài Gòn và Đồng Nai đều có một hệ thống chi lưu, phụ lưu và các con sông rạch nhỏ, Khí hậu ở khu vực Cần Giờ vô cùng khắc nghiệt. Mùa khô kéo dài và mùa mưa đến chậm , lượng mưa cũng ít hơn những nơi khác ở miền Đông Nam Bộ.

Phân bố trên vùng đất ven biển có địa hình hết sức phức tạp này, nhóm mộ chum Cần Giờ gồm 2 di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ có những đặc trưng cơ bản sau:

– Là một nhóm di tích cư trú và mộ chum phân bố trên những giồng đất đỏ hoặc đất nâu đen. Mộ chum phân bố dày đặc không có qui luật ngay trên tầng văn hóa của di chỉ cư trú. Bên cạnh số lượng mộ chum lớn còn có cả mộ đất. Loại hình chum mai táng tuyệt đại đa số là hình cầu đáy tròn, miệng hơi khum được mài khá nhẵn. Chum được đặt đứng trên một lớp đất gia cố đặc biệt, hoàn toàn không có nắp đậy. Trong chum di cốt còn khá nguyên vẹn thể hiện tục hung táng (Primary burial) Truyền thống mộ táng ở Cần Giờ có sự chuyển biến về táng thức: Mộ huyệt đất sét – mộ chum gốm đặt trong huyệt đất sét – mộ chum gốm – mộ huyệt đất. Có thể nhận biết truyền thống này qua các di tích Khu Bao Đồng – Giồng Cá Vồ – Giồng Phệt. (Đặng Văn Thắng…, 2006).

– Tầng văn hóa gồm mộ táng và một hệ gốm di chỉ có lọai hình và kỹ thuật sản xuất riêng biệt “gốm Cần Giờ”. Đây là lọai gốm do cư dân cổ Cần Giờ sản xuất, nguyên liệu tại chỗ, lọai hình riêng biệt, kỹ thuật đặc thù, diễn biến liên tục qua các di tích KCH ở đây từ khỏang 3000 năm đến khỏang 1500 năm cách nay. Lọai hình đặc trưng là bình thân cầu miệng khum có rãnh, bình đáy hình trứng cổ thắt miệng loe vành miệng gập vào trong có rãnh, bình đáy chỏm cầu cổ thắt vành miệng vê tròn. Hoa văn in đập xương cá thô “lá dừa nước” hay ô vuông, ô trám. Kỹ thuật nặn tay, gắn chắp. Xương gốm pha cát khá mịn, độ nung cao. Đáng chú ý là các lọai chum gốm mai táng cũng cùng chất liệu và kỹ thuật sản xuất.

– Hiện vật trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa có cùng loại hình và chất liệu, thể hiện mối giao lưu vô cùng rộng rãi và mật thiết với nhiều vùng khác nhau, như văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai, văn hóa Óc Eo và của cả những vùng xa hơn như Thái Lan, Campuchia và nhất là Philippin.

– Nhóm di tích này có khung niên đại khoảng từ 3000 năm đến 2000 năm cách ngày nay, niên đại C14 của lớp mộ táng Giồng Cá Vồ 2480 ± 50 năm cách ngày nay và Giồng Phệt là 2100 +/-  50 năm,  tương đương giai đoạn Hậu kỳ của Văn hóa Sa Huỳnh.

Từ những đặc trưng này đã có ý kiến kiên trì phân lập nhóm di tích này thành một văn hóa mới: “Văn hóa Giồng Phệt” (Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn Thắng, 1995, 2006)

2.2 Nếu coi đặc trưng đầu tiên của Văn hóa Sa Huỳnh

là “trừ mộ huyệt đất ở địa điểm Bình Châu, tất cả các di tích mộ táng Văn Hóa Sa Huỳnh từ giai đoạn Sơ kỳ đến gia đoạn Hậu kỳ đều được mai táng bằng những chum gốm lớn” thì một số một đất, nằm ở vùng địa tầng và có cùng loại đáy tròn và chum có vai gãy đáy bằng của Văn hóa Giồng Phệt khá khác biệt 3 loại chum hình trụ hay hình ống, hình trứng và hình cầu dùng mai táng trong Văn hóa Sa Huỳnh. Mộ chum ở Sa Huỳnh thường không tìm thấy xương răng người chết, nên có thể đó là những chum dùng để cải táng ( secondary buribal). Trong khi đó tuyệt đại đa số mộ chum ở Cần Giờ còn di cốt người như: sọ, răng, sương ống, xương chi.. trong nhiều mộ, di cốt còn khá nguyên vẹn cho thấy cư dân cổ nơi đây đã chôn nguyên thi thể người chết trong chum bằng cách bó ngồi (Nguyễn Lân Cường, 1995). Tục cải táng hay chôn ở mộ đất chỉ là những ngoại lệ. Với số lượng mộ chum nhiều đến kinh ngạc ( di tích Giồng Cá Vồ tìm thấy 339 mộ/225 m2 ), với sự đồng nhất của loại hình chum mai táng và sự thống nhất trong táng tục, ta thấy cư dân ở đây đã có một tập tục hung táng lâu dài, ổn định và độc đáo. Đây là yếu tố đầu tiên giúp ta phân biệt “Văn hóa Giồng Phệt” với những văn hóa khác có cùng tục mai táng bằng chum gốm.

Di tích chum mộ tại Giồng Cà Vồ

Đồ gốm tùy táng ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ dễ dàng nhận thấy những yếu tố của gốm Sa Hùynh về lọai hình và hoa văn: các loại nồi gãy góc ở thân, bình Sa Huỳnh, bát đĩa chân cao…, với số lượng không nhiều. Các hiện vật kiểu Sa Huỳnh ấy được tìm thấy trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa. Thủ pháp trang trí gốm các của cư dân Sa Huỳnh là khắc vạch kết hợp in mép sò và tô màu ( chủ yếu là tô đen ánh chì) cũng chính là thủ pháp trang trí gốm của chủ nhân nhóm mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt. Hoa văn gốm uốn lượn mềm mại kết hợp với in mép sò, ấn chân chim vào một số họa tiết đệm khác như tam giác, những vạch chéo…tạo nên những đồ án chữ S kép nối nhau chạy ngang thanh gốm với những vạch xiên chéo kiểu “sóng biển, mưa rào”, hay những chữ S gấp khúc nằm xiên móc vào nhau có tam giác đệm… Dù là đồ án nào thì nét khắc vạch cũng rất phóng khoáng, nhịp nhàng, nhiều biến thể, nhưng không chặt chẽ, cân đối như hoa văn gốm Sa Huỳnh. Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ở đồ gốm “kiểu Sa Huỳnh” ở đây hoàn toàn vắng mặt thủ pháp tô đen ánh chì, mà chỉ có một số tiêu bản được tô thổ hoàng.

Ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã tìm thấy 32 khuyên tai hai đầu thú (Giồng Phệt 5 chiếc bằng đá ngọc và Giồng Cá Vồ 27 chiếc, trong đó có 19 chiếc bằng đá và 8 chiếc bằng thủy tinh (Nguyễn Thị Hậu 2006). Đặc biệt, ở Giồng Cá Vồ còn tìm thấy một chiếc khuyên tai hai đầu thú bằng đá hình chiếc khánh, đây là tiêu bản độc đáo nhất của loại hình này và cho đến nay là tiêu bản duy nhất đã tìm thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á. Tại Giồng Cá Vồ, đã tìm thấy 4 cặp khuyên tai 2 đầu thú bằng đá giống nhau trong mộ chum. Quan trọng hơn, trong mộ chum di cốt còn khá nhiều hộp sọ còn nguyên với 2 hàm đầy đủ có một khuyên tai hai đầu thú bằng đá màu xanh nằm áp sát vào tay trái rất ngay ngắn. Móc đeo và hai cặp sừng quay lên trên, hai miệng ở phía dưới đúng tư thế và vị trí của một khuyên tai. Như vậy, việc phát hiện những khuyên tai hai đầu thú ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã cung cấp thêm những tư liệu để xác định chức năng của nó. Chủ nhân văn hóa Giồng Phệt đã sử dụng đồ trang sức này ở cả nam và nữ, đeo ở một hay cả hai bên tai, cả chủ nhân mộ chum và mộ đất. Cùng tượng hình “hai đầu thú”, ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ còn tìm thấy nhiều tượng hình chim bằng đất nung có 2 hoặc 3,4 đầu. Những tượng hình chim này được gắn lên đỉnh mộ hình tháp bằng đất nung có 4 mặt, hoặc đơn giản hơn, gắn trên một đoạn gốm hình trụ có chân đế choãi cao. Loại hình đồ gốm độc đáo này tìm thấy trong cả mộ táng và trong tầng văn hóa. Rõ ràng hình tượng hai ( hay nhiều) đầu chim, đầu thú thể hiện trên đồ trang sức và đồ gốm ở đây có mối quan hệ với nhau, theo chúng tôi, chúng đều là biểu tượng của một hình thái tôn giáo – tín ngưỡng, có thể coi loại hình hiện vật có hình tượng đầu chim, đầu thú là một đặc trưng văn hóa của văn hóa Giồng Phệt (Nguyễn Thị Hậu, 1997).

Ngoài khuyên tai 2 đầu thú ở đây còn phổ biến một số loại hình trang sức quen thuộc của văn hóa Sa Huỳnh như: khuyên tai 3 mấu, hạt chuỗi mã não có số lượng nhiều nhất với nhiều hình dáng và kích cỡ. Đồ trang sức thủy tinh: Ngoài khuyên tai 2 đầu thú và khuyên tai 3 mấu, còn có rất nhiều loại hạt chuỗi và vòng đeo. Có thể nói đồ trang sức của Giồng Cá Vồ và Giồng Phệt đã thể hiện khả năng “hội tụ” những yếu tố đặc trưng của nhiều nền văn hóa trong Sơ kỳ Thời đại sắt ở Đông Nam Á và vùng xa hơn, trong đó ảnh hưởng của Văn hóa Sa Huỳnh là khá đậm nét.

Trong Văn hóa Sa Huỳnh công cụ bằng sắt khá phong phú như rìu, cuốc, thuổng, dao, liềm. Nhưng trong Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt lại phổ biến các loại vũ khí như giáo, kiếm, lao kích thước khá lớn, thường được bẻ cong hoặc gấp đôi để đặt vào mộ chum. Chủ nhân của những mộ chum này chắc chắn là người có địa vị cao trong xã hội; công cụ sản xuất nông nghiệp rất ít, chỉ là sự “góp mặt” bên cạnh số lượng lớn các loại dao dùng trong sinh hoạt và nhiều loại lưỡi câu để đánh bắt hải sản. Một số hiện vật sắt được bọc nhiều lớp vải. Một số hiện vật sắt được bọc nhiều lớp vải ( có loại vải thô nhưng cũng có loại khá mịn) cho thấy giá trị cao của chúng. Công cụ vũ khí bằng sắt ngoài chất năng thông dụng còn là biểu tượng cho quyền lực của chủ nhân chúng trong một xã hội đã có sự phân hóa khá sâu sắc. Yếu tố của nông nghiệp trồng trọt khá mờ nhạt trong văn hóa Giồng Phệt; cảnh quan môi trường sinh thái ở đây đã không cho phép cư dân sống bằng nghề nông chứ chưa nói đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp! Chỉ có nghề khai thác biển là khá phát triển.

Như vậy, những yếu tố của Văn hóa Sa Huỳnh trong “văn hóa Giồng Phệt” khá rõ nét trên đồ gốm tùy táng và đồ trang sức, là những loại hình hiện vật thể hiện tư duy thẩm mỹ và đời sống tâm linh của cư dân cổ. Chính vì vậy, đồ gốm và đồ trang sức thường xuyên được trao đổi giao lưu về cả sản phẩm và kỹ thuật. Như trên đã nói, đã tìm thấy những bằng chứng chế tạo đồ trang sức tại Giồng Cá Vồ, và kỹ thuật nặn tay, gắn chắp làm gốm di chỉ cũng sử dụng trong làm đồ gốm tùy táng (các tượng gốm, chân đế…). Khu vực Cần Giờ thể hiện hiện rõ sự tiếp nhận kỹ thuật từ những vùng xung quanh và phát triển thành một đặc trưng riêng biệt.

2.3 Di tích mộ chum Hòa Diêm

(xã Cam Thịnh, thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) và nhóm di tích mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ, TP.HCM)

Qua diễn biến tầng văn hóa, đối sánh với các di tích trong khu vực và xa hơn, bước đầu những người khai quật cho rằng niên đại di tích Hòa Diêm có thể kéo dài trong khoảng thế kỷ 1-2 TCN đến thế kỷ 2-3 sau CN, trong đó lớp sớm có quan hệ chặt chẽ với văn hóa Xóm Cồn – văn hóa sơ kỳ kim khí ở Khánh Hòa, lớp văn hóa muộn có quan hệ với giai đoạn sớm của văn hóa Chăm, còn giai đoạn Hòa Diêm tương đương với văn hóa Sa Huỳnh cổ điển ở ven biển miền Trung Việt Nam. Ngoài ra di tích Hòa Diêm còn có mối quan hệ rộng hơn với các di tích liền kề cũng như một số văn hóa cùng thời ở khu vực phía Nam. Con đường phát triển và quan hệ văn hóa của di tích Hòa Diêm đã góp phần tạo nên một khu vực văn hóa tiền sử mang những đặc điểm riêng ở Nam Trung bộ.

Tầng văn hóa di tích Hòa Diêm còn khá nguyên vẹn và chứa nhiều hiện vật đồ đá, gốm, vỏ nhuyễn thể, kim loại… Sự diễn biến từ sớm đến muộn với các giai đoạn văn hóa khác nhau, kể cả địa tầng gốm và cả địa tầng mộ táng cho biết tính chất của di tích là nơi cư trú đồng thời là khu mộ táng có nhiều táng thức như hung táng, cải táng, mộ đất, mộ chum/ vò gốm, mộ tượng trưng. Đặc trưng nổi bật của di tích Hòa Diêm là mộ chum: mật độ phân bố dày đặc, chum hình cầu có một chum khác đậy lên trên, chum dưới ghè rộng miệng để dễ sắp xếp di cốt và hiện vật. Do cải táng và hỏa táng rồi cho xương vào chum nên di cốt trong chum không theo quy luật nào cả, có mộ có tới 3 cá thể, nhiều mộ có 2 cá thể, mộ số 1 có 1 cá thể và nhiều mộ chỉ có vài mẩu xương vụn, thậm chí có mộ không còn di cốt. Trong các mộ chum có di cốt người lớn và cả trẻ em. Phần di cốt được bảo quản cẩn thận nhất là sọ, thường có mảnh gốm lớn kê ở dưới. Nhiều mộ chum có hiện tượng nắp vỡ sụp xuống lòng chum, vị trí một số đồ gốm tùy táng có chức năng như kê, che cho di cốt quan trọng như sọ, hàm (Nguyễn Công Bằng, 2005).

Qua những nét tổng quan về di tích, mộ táng và đồ tùy táng của di tích Hòa Diêm, có thể thấy rằng, nếu chỉ nhìn Hòa Diêm từ một chiều “theo quán tính” là cứ di tích nào có mộ chum thì thuộc văn hóa Sa Huỳnh thì ta buộc phải nhận thấy “mộ vò Hòa Diêm còn chứa đựng biết bao nhiêu điều khó hiểu”. Hình dáng vò táng, táng thức, nhiều loại hình gốm và cách tạo hoa văn… “tất cả những cách đó đều không thấy ở Sa Huỳnh, không chắc là Champa, mà cũng không phải là ai cả ở gần đây hơn”. Và, “nói Hòa Diêm sau Xóm Cồn thì không có nghĩa là Hòa Diêm lại đến gần Sa Huỳnh hơn. Ngược lại, nó cũng xa Sa Huỳnh cũng như Xóm Cồn vậy” (Lương Ninh, 2001).

Như vậy, mộ táng trong di tích Hòa Diêm đã thể hiện những đặc trưng gần với Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt thuộc khu vực văn hóa Đồng Nai hơn là văn hóa Sa Huỳnh. Ngoài ra, các mộ đất có hiện tượng rải, phủ gốm, loại hình rìu đồng tùy táng, đá cuội trong mộ chum và mộ đất ở Hòa Diêm đều là những hiện tượng đã gặp và khá phổ biến trong văn hóa Đồng Nai. Tất nhiên không thể vì vậy mà mở rộng phạm vi của “văn hóa Giồng Phệt” hay văn hóa Đồng Nai đến Nam Trung bộ – một vùng cảnh quan/ sinh thái tương đối khác biệt. Với những bằng chứng trên, Khánh Hòa – rộng hơn là khu vực Nam Trung bộ với nhóm di tích Bàu Hòe – Hòn Đỏ – Mỹ Tường ở Bình Thuận mà các mộ vò ở đây “với phong cách mai táng, hình dáng và kích thước gần gũi với cụm di tích Suối Chồn – Đồng Nai và khác lạ với cụm vò lớn hình trụ hay hình trứng điển hình của văn hóa Sa Huỳnh”, đã thể hiện rõ tính chất vùng giao thoa/ vùng đệm của hai trung tâm văn hóa thời đại kim khí trong thời gian so kỳ đồ sắt sôi động giai lưu văn hóa qua buôn bán và các luồng di dân ven biển ĐNA (Phạm Đức Mạnh,… 1984). Nếu không đặt các di tích mộ chum ở niềm Nam Việt Nam trong bối cảnh đó thì rất khó xác định nội dung văn hóa của từng khu vực cũng như tìm ra bản chất của các mối quan hệ, liên hệ giữa chúng.

Là một trong những văn hóa tiền sử được phát hiện và nghiên cứu sớm nhất ở VN và ĐNA, văn hóa Sa Huỳnh có vị trí quan trọng trong việc định vị và đối sánh các văn hóa cùng thời, nhất là những văn hóa ven biển và hải đảo có mối quan hệ giao lưu mật thiết với nó. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa cùng thời, cùng trình độ phát triển, địa  bàn kề cận nhau là hiện tượng văn hóa mang tính quy luật. Ở khu vực giáp ranh Nam Trung bộ tùy từng giai đọan mà văn hóa ở đây sẽ ảnh hưởng đậm nét các yếu tố văn hóa Sa Huỳnh hay văn hóa Đồng Nai.

Những đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh ngày nay đã tìm thấy trong nhiều nền văn hóa ở những địa hình môi trường khác nhau. Điều này càng cho thấy rõ hơn mối quan hệ qua biển, bằng biển của cư dân cổ Đông Nam Á: yếu tố văn hóa Biển mang lại những nét tương đồng còn yếu tố lục địa làm nên nét khác biệt cho các nền văn hóa cổ, Biển Đông từ thời xa xưa cho đến nay luôn có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của khu vực Đông Nam Á. Đây cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh đến văn hóa Chămpa và từ văn hóa Đồng Nai đến văn hóa Óc Eo./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

NGUYỄN CÔNG BẰNG, 2005. Di tích Hòa Diêm – Khánh Hòa nhìn từ văn hóa Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học số 4/2005. Tr 48 – 54.

NGUYỄN LÂN CƯỜNG, 1995. Nghiên cứu các di cốt người cổ tại Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ – TPHCM). Tạp chí KCH số 2/1995.

NGUYỂN THỊ HẬU  1997.Khuyên tai hai đầu thú trong các di tích mộ chum Cần Giờ (TPHCM) . Tạp chí VHNT số 8/1997 trang 23 – 26.

NGUYỄN THỊ HẬU, 2006. Di tích KCH ở Cần Giờ – TPHCM, những tư liệu mới. NPHVKCH 2006

NGUYỄN THỊ HẬU , ĐẶNG VĂN THẮNG 1995. Về những yếu tố Sa Huỳnh trong văn hóa Giồng Phệt. Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An – Kỷ yếu HTKH, Hội An 2004. Tr.262 – 281.

LƯƠNG NINH, 2001. Xóm Cồn – Hòa Diêm – Sa Huỳnh. Tạp chí Khảo cổ học số 2/ 2001. Tr 72 – 80.

PHẠM ĐỨC MẠNH, BÙI CHÍ HÒANG. 1984. Cụm di tích mộ vò miền đông Nam bộ. Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ĐBSCL, Long Xuyên 1984, trang 128- 131.

VŨ CÔNG QÚY, 1995. Văn hóa Sa Huỳnh trong thời đại kim khí Việt Nam. Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An – Kỷ yếu HTKH, Hội An 2004. Tr 283 – 296.

ĐẶNG VĂN THẮNG, NGUYỄN THỊ HẬU, 2006. Khai quật di tích Khu Bao Đồng (Cần Giờ – TPHCM). Tạp chí KCH số 5/2006, tr. 38 – 49.

Nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-co-trung-dai-o-viet-nam/1694-nguyen-thi-hau-van-hoa-sa-huynh-nhin-tu-van-hoa-dong-nai.html

Văn hóa Gò Mun!

Văn hoá Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun- xã Tứ Xã- huyện Lâm Thao- tỉnh Phú Thọ.

Văn hoá Gò Mun có niên đại cách ngày nay 2500-3000 năm, là nền văn hóa hậu kỳ thời đại đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Phân bố ở miền Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng với địa bàn phân bố của văn hoá Đồng Đậuvăn hóa Phùng Nguyên. Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm…thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội. Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích văn hoá Gò Mun như các di chỉ: Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới… phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng….

Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng, các di tích và di vật… đều phản ánh một cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng. Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng văn hoá Gò Mun chỉ như một “bản lề”, một “khâu chuyển tiếp” hay một điểm “giao thời”, “đệm” cho văn hoá Phùng Nguyên – Đông Sơn.

Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun:

Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật vào các năm 1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học đã thu được hàng vạn hiện vật bao gồm: đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau.

Hiện vật đá: qua 4 lần khai quật đã thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh…;

Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu…; hiện vật gốm thời kì này có dọi se sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc…

Hiện vật văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu như:

hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật; được làm từ chất liệu đồng, gốm, đá…Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu. Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học đã tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu… qua đó cho chúng ta biết được người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn. Giai đoạn Gò Mun lần đầu tiên xuất hiện mũi tên được làm bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng.

Thông quá đó cũng cho chúng ta thấy sự khéo léo của cư dân người Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và cũng là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong văn hóa Gò Mun:

Hơn thế nữa ở giai đoạn này còn ghi nhận sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau so với các giai đoạn trước. Đồ đồng trong văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau.  Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác. Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của văn hóa Đông Sơn.

Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như: rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc… và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi.

Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra. Điều đó đã được minh chứng bằng sự có mặt của những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại.

Tượng đồng thuộc Văn hóa Gò Mun

Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt văn hóa Gò Mun và văn hóa Đồng Đậu:

Trong giai đoạn văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng đã bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng được xác định rõ ràng. Chính việc ổn định kiểu dáng đã dẫn đến việc sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu. Song dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt tới trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là về nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn.

Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun: rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa… đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán. Đây là những c«ng côcơ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun thời bấy giờ.

Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nghề trồng lúa nước. Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước.

Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo ra đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng.

Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận sự phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun:

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun đã dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình. Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế.

Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu là văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm. Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ. Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản.

Nếu như gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn  thì đến giai đoạn này, gốm được nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxít silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế mà gốm có độ cứng hơn, có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời kì trước.

Mảnh gốm – Văn hóa Gò Mun

Loại hình gốm trong văn hóa Gò Mun rất phong phú:

Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng như: nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.Qua đó  phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc được họa bức tranh toàn cảnh về sự tụ cư thời đó. Đó là sự quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình,  …, là sự hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính…và sau này trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam.

Như vậy có thể thấy rằng: giai đoạn này xã hội người Việt đã có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt. Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm của mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá. Chính vì có bước tiến bộ trong kĩ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người dân Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt.

Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

Hiện nay tại bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như: rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm… tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kì có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc. Đó cũng chính thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu  cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/hien-vat-dac-sac/401-van-hoa-go-mun

Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa tiếp nối văn hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân- huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, được các cán bộ văn hóa của tỉnh phát hiện năm 1962. Qua 6 lần khai quật đã phát hiện hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, gốm, xương sừng… Nền văn hóa này có niên đại mở đầu vào khoảng thế kỷ XV- XIV trước công nguyên và chấm dứt thế kỷ X-IX trước công nguyên.

Dấu tích Lò – Văn hóa Đồng Đậu

Ở Phú Thọ có một số địa điểm thuộc nền văn hóa này. Đó là: Xóm Rền, Nội Gan- Kinh Kệ, Đồng Đậu con – Tứ Xã- Lâm Thao…Đây là nền văn hóa quan trọng tương ứng với thời đại tiền Hùng Vương ở Việt Nam. Việc phát hiện các di chỉ thuộc nền văn hóa này một lần nữa khẳng định Phú Thọ là một trong những cái nôi của nền văn minh trong lịch sử: văn minh Việt cổ.

Đồ gốm trong văn hóa Đồng Đậu:

Người Đồng Đậu tiếp thu những kỹ thuật, thành tựu của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá và làm gốm thành những sản phẩm bình, bát, nồi vò…nhưng khác biệt là ở chỗ người Đồng Đậu cải tiến trong loại hình đồ gốm miệng loe, bẻ xiên, vát mỏng hay trang trí hoa văn sóng nước bằng dụng cụ nhiều răng được gọi là “bút kẻ khuôn nhạc” trở thành đặc trưng không thể thiếu của văn hóa Đồng Đậu. Hoa văn trên gốm Đồng Đậu chủ yếu trang trí ở cổ hay ở vành mép miệng của đồ gốm.

Miệng bình gốm – văn hóa Đồng Đậu

Một đặc trưng khác của gốm Đồng Đậu khác so với gốm Phùng Nguyên và gốm Gò Mun là gốm Đồng Đậu thường có dấu in đan lóng mốt trong một số loại đồ đựng thuộc loại đáy bằng. Về chất liệu gốm, nếu như gốm Phùng Nguyên có màu đỏ, màu hồng nhạt thì gốm Đồng Đậu có màu xám và có độ nung cao hơn nhưng về cơ bản vẫn mang yếu tố truyền thống là đất sét pha cát và bã thực vật. Trong các di chỉ Đồng Đậu xuất hiện rất phổ biến tượng đất nung: tượng bò, tượng gà, tượng rùa…

Đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu:

Về đồ đá họ cũng biết làm rìu đá, đục đá, mũi lao xương, khuyên tai có mấu, vòng tay bằng đá ngọc nhưng đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu không chau chuốt bằng đá Phùng Nguyên và ở Đồng Đầu đồ đá xuất hiện mũi tên ba cạnh, mặt cắt tam giác hay hạt chuỗi hình “gối quạ”. Qua những lần khai quật tại các di chỉ, các nhà khảo cổ học nhận định rằng công cụ sản xuất đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu có chiều hướng giảm đi và được thay thế bằng đồ đồng.

Truyền thống cư dân vùng Phú Thọ trồng lúa nước có từ thời kỳ Phùng Nguyên thì đến Đồng Đậu một lần nữa lại khẳng định điều này. Nhiều thóc gạo đã được tìm thấy trong nhiều di chỉ và đặc biệt trong di chỉ Đồng Đậu đã tìm thấy dấu vết hạt gạo cháy.

Đồ đồng trong văn hóa Đồng Đậu:

Trong văn hóa Phùng Nguyên khai quật các di chỉ cho thấy xuất hiện nhiều những cục sỉ đồng nhỏ như hạt ngô ở Gò Bông và một số mảnh đồng nhỏ chưa định hình tại Đoan Thượng- …thì đến Đồng Đậu công cụ bằng đồng đạt đến trình độ cao. Một bước phát triển đột biến như là một cuộc cách mạng về luyện kim. Trong nhiều di chỉ phát hiện nồi nấu luyện đồng, lò nung, khuôn đúc các loại đơn hoặc kép. Hàng trăm mảnh khuôn, mảnh nồi nấu đồng, dấu vết của lò nung, nhiều tiêu bản được xem như lõi của khuôn đúc, cùng với các loại công cụ như: rìu xòe cân, giáo, lao, đao, mũi tên hai ngạnh, đũa, búa, lưỡi câu được chế tác hoàn chỉnh.

Đồ đồng – văn hóa Đồng Đậu

Qua 6 lần khai quật tại các di chỉ của Đồng Đậu đã tìm được rất nhiều loại lưỡi câu đồng, điều đó cho thấy cư dân Đồng Đậu là những người đánh cá rất giỏi vì bộ lưỡi câu đồng tìm được với các kỹ thuật phức tạp: từ đúc tạo que, đến gia công rèn nguội, chặt ngạnh, chặt mũi uốn lỗ xỏ dây đã tạo được một sản phẩm hoàn chỉnh như chiếc lưỡi câu ngày nay. Tại một số di chỉ khác của Đồng Đậu tìm được rất nhiều xương răng của các loài cá như: cá quả, cá chép, cá trắm, cá chiên, cá chuối đã chứng tỏ ưu thế về phương thức khai thác thủy sản trong đó có nghề câu cá ở thời kỳ này.

Nông nghiệp Đồng Đậu:

Với một nền nông nghiệp phát triển, kế thừa thành tựu chế tác đá gốm của người Phùng Nguyên cùng với đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đồng đã đánh dấu một bước phát triển của xã hội cư dân Đồng Đậu. Với việc khai thác các di chỉ mộ táng cho ta hiểu biết hơn về tổ chức xã hội cũng như thế giới tinh thần của cư dân Đồng Đậu như khai quật được một mộ táng đơn hay 1 mộ song táng (2 cá thể) dùng đất sét làm nền quan tài.

Dấu tích bếp nấu ăn – Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu được GS Hà Văn Tấn khẳng định:

“Đó là văn hóa của những người luyện kim, chế tác kim loại điêu luyện và lành nghề. Đó là văn hóa của những người thợ gốm tài hoa, tạo tác những khối lượng động vật độc đáo, chế tác được những đồ gốm kích thước lớn, trang trí hoa văn đẹp mang phong cách riêng của thời đại mình đang sống. Và đó cũng là văn hóa của những người biết phát huy, kế thừa những thành quả của cha ông thời Phùng Nguyên để bồi đắp, tạo lập một thế hệ mới phát triển cao hơn, biết chọn điểm nhấn quan trọng, quyết định đến sự tồn vong của cộng đồng là luyện kim và đúc đồng bên cạnh nghề chế tác đá truyền thống….”

Hiện nay tại Bảo tàng Hùng Vương đang trưng bày giới thiệu một số bộ sưu tập hiện vật Đồng Đậu. Cùng với các vấn đề đã được làm sáng tỏ của văn hóa Đồng Đậu, còn rất nhiều câu hỏi mở như: Dấu vết cư trú của cư dân Đồng Đậu, vấn đề cư trú, vấn đề phân chia giai đoạn của nền văn hóa này…đang chờ các bạn tìm hiểu và giải đáp trong tương lai.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/nghien-cuu-suu-tam/400-van-hoa-dong-dau

Về kỹ thuật chế tác công cụ trong văn hóa Phùng Nguyên

Chiếm tỉ lệ chủ yếu trong công cụ sản xuất của cư dân văn hoá Phùng Nguyên vẫn là đồ đá. Tuy nhiên, kĩ thuật chế tác đá của cư dân Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao mà ở giai đoạn trước hay sau đó đều không vượt qua. Hầu hết các loại công cụ và đồ trang sức bằng đá của người Phùng Nguyên đều được mài nhẵn, có kích thước nhỏ nhắn, tinh tế, được chế tác từ các loại đá quí hiếm, có độ rắn cao, màu sắc đẹp. Nếu ở giai đoạn hậu kì đá mới, con người mới biết đến các loại hình kĩ thuật như ghè, đẽo, cưa, khoan, tiện đá… thì đến văn hoá Phùng Nguyên, những kĩ thuật này đã trở nên phổ biến thành thục đến độ tinh vi. Các thao tác kĩ thuật như tiện đá, khoan lỗ và khoan tách lõi đã giúp người Phùng Nguyên tạo ra các loại hình công cụ có hình dáng chính xác và tiết kiệm được nguyên liệu.

Chiếm đa số trong các loại hình công cụ đá Phùng Nguyên là các loại rìu bôn có thiết diện hình tứ giác. Người ta đã tìm thấy số lượng lớn các bôn đá hình tứ giác có lưỡi vát lệch một bên ở các di chỉ Phùng Nguyên. Ngay tại một di chỉ như Gò Bông (Phú Thọ), các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 44 chiếc bôn đá. Phần lớn trong số bôn đá tìm được có kích thước nhỏ, mỏng, dài trung bình từ 1,8 – 2,5cm, rộng 1,5 – 2cm, dày 0,1 – 0,5cm, lưỡi tạo góc 30 – 40 độ, nhiều chiếc dài bằng chiều rộng [1].

Bện cạnh là các loại rìu đá hình tứ giác có kích thước nhỏ, góc lưỡi sắc. Đặc biệt, người ta cũng bắt gặp trong các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên loại rìu đá được chế tác bằng ngọc Nephrit có màu trắng đục, trắng vân hồng hay vân xanh. Loại rìu này kích thước rất nhỏ (dài trung bình 3cm, rộng gần 2cm, dày 0,5cm), có loại còn bé hơn, giống như đồ trang sức của con người. Đó là sản phẩm của đôi bàn tay chế tác đá tài hoa của người Phùng Nguyên bấy giờ.

Ngoài bôn và rìu đá, trong các di chỉ Phùng Nguyên còn tìm thấy nhiều loại hình công cụ khác, như đục đá, cuốc đá, dao đá, liềm đá, cưa đá, mũi khoan đá, mũi lao, mũi giáo, mũi tên đá 2 – 3 cạnh… Những hiện vật này đều được làm ra trong một số công xưởng chế tác đá ở Tràng Kênh, Bãi Tự, Gò Chè,…

Trong một số di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên, người ta còn tìm được những cục đồng nhỏ, gỉ đồng và xỉ đồng. Tại di chỉ Gò Bông, bên cạnh những cục đồng còn tìm thấy xỉ đồng và gỉ đồng ở độ sâu 1,3m. Ở một số địa điểm khác như gò Đồng Xâu, Lũng Hoà, chùa Gio cũng tìm thấy gỉ đồng và mảnh khuôn đúc đồng bằng đất nung. Bằng phương pháp phân tích quang phổ những cục đồng tìm thấy được ở Gò Bông, người ta cho rằng đây là hợp kim đồng thau (gồm đồng, thiếc và một số vết bạc) chứ không phải là dạng đồng đỏ ban đầu.

Việc phát hiện xỉ đồng, gỉ đồng, khuôn đúc đồng bằng đất nung là bằng chứng cho phép chúng ta xác định về sự ra đời của nghề luyện kim đồng thau ở Việt Nam trong giai đoạn phôi thai.

Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa tìm thấy được những đồ đồng nguyên vẹn trong các di chỉ Phùng Nguyên. Việc không có những hiện vật bằng đồng được định hình cho thấy đồ đồng thời bấy giờ còn chiếm tỉ lệ rất ít. Không thể phủ nhận rằng, mặc dù chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên đã bước vào thời đại kim khí nhưng đồ đồng vẫn chưa lấn át được công cụ bằng đá. Đồ đá vẫn chiếm tỉ lệ chủ yếu (92%) và là công cụ chủ đạo trong đời sống sản xuất – kinh tế của người Phùng Nguyên [2].

Nguồn: bachkhoatrithuc.vn

Văn hóa Hạ Long giai đoạn hậu kỳ đồ đá mới

Nổi tiếng là một trong những nền văn hóa tiền sử được biết đến sớm nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á, văn hóa Hạ Long đã được các nhà khảo cổ và địa chất học tìm ra và đặt tên từ những năm 1930.

 

Học giả người Thụy Điển J.G. Anderson đã nghiên cứu nhiều hang động trên quần đảo Bái Tử Long và tổng kết bằng công trình được công bố trên tạp chí Bảo tàng cổ vật Viễn Đông với tên gọi: Nghiên cứu khảo cổ học trên vùng quần đảo Bái Tử Long. Ông đã tìm thấy một số địa điểm thời tiền sử có dấu vết của con người và nhiều công cụ. Ông chọn một trong số đó để khai quật và đặt tên là Danh Do La. Đây là địa điểm văn hóa Hạ Long đầu tiên được khai quật và nền văn hóa mang tên vịnh biển đẹp nhất nước ta cũng nổi danh từ đó.

Lần theo bước chân của Anderson, các nhà khảo cổ Việt Nam biết được Danh Do La chính là địa điểm khảo cổ Ngọc Vừng, nằm trên đảo Ngọc Vừng thuộc huyện đảo Vân Đồn, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 34 km. Ngày nay, du khách đến đảo hết sức thuận tiện. Trên đảo không những là nơi cách đây gần 4000 năm con người tiền sử đã cư trú mà còn có các di tích lịch sử như một trong những bến cảng xưa sầm uất của hệ thống thương cảng Vân Đồn buôn bán khắp một vùng Đông Bắc Việt Nam, nam Trung Quốc, các nước Đông Nam Á cổ đại và miền Tây Ấn Độ, di tích thành nhà Mạc, nhà Nguyễn. Người tiền sử chọn Ngọc Vừng là nơi cư trú phải chăng còn do sơn thủy hữu tình: có núi Vạn Xuân, có bãi cát trắng chạy dài hàng cây số. Cư dân trên đảo còn có nghề mò ngọc trai lâu đời, nên tên đảo cũng là Ngọc Vừng (đảo ngọc bừng sáng). Nghề mò ngọc trai giờ đã hiếm gặp nhưng du khách có thể tham quan những cơ sở nuôi trai lấy ngọc ngay trên đảo.

Bà M.Colani, nhà nữ khảo cổ người Pháp cũng gắn bó với văn hóa Hạ Long. Bà đã công bố tác phẩm “Những phát hiện thời tiền sử ở Hạ Long” đăng trong tạp chí của Viện nghiên cứu nhân học Đông Dương từ năm 1938.

Kể từ những phát hiện đầu tiên của các học giả Phương Tây đến nay đã hơn 70 năm, việc nghiên cứu về văn hóa Hạ Long từ một nhóm di tích nay đã nghiên cứu và khai quật được hơn 30 di tích. Bức tranh toàn cảnh của nền văn hóa này đã được dựng lại khá đầy đủ.

Văn hóa Hạ Long có niên đại vào khoảng 4000 – 3500 năm trước và được các nhà khảo cổ học xếp vào giai đoạn hậu kỳ thời đại đồ đá mới. Người tiền sử đã chọn một vùng biển đảo Đông Bắc Việt Nam làm nơi cư trú, nơi có một nguồn thức ăn hải sản vô tận, lại có cả bãi biển và hang động làm nơi ở thuận tiện. Địa bàn cư trú của người cổ Hạ Long là một vùng biển nông, độ sâu trung bình khoảng 10 mét, có tới 20 luồng lạch từ vùng vịnh thông ra đại dương, thuận tiện cho việc tránh gió và ra khơi đánh bắt xa bờ. Các nhà khảo cổ đã tìm được trong tầng văn hóa có những xương cá to, có thể họ đã bắt được cá nặng hàng tạ. Họ còn biết đánh cá bằng lưới mà hiện vật còn lại là những hòn chì lưới to. Ngoài cá, nhiều loại hải sản khác cũng được khai thác, nhiều vỏ nhuyễn thể còn được tìm thấy.

Công cụ đá được sử dụng trong văn hóa Hạ Long

Không những đi biển giỏi, người Hạ Long cũng là người biết làm nông nghiệp. Bằng chứng là các công cụ đá như cuốc, rìu, bôn đã có mặt. Họ tự chế tác công cụ đá bằng các kỹ thuật mài, cưa, khoan, đánh bóng,… Họ cũng đã biết làm đồ gốm bằng cách nhào đất với vỏ nhuyễn thể giã nhỏ và nung lên, làm đẹp thêm cho gốm bằng cách khắc vẽ các hoa văn hình học. Nghề trồng cây lấy sợi để đan lưới cũng là nghề thủ công phổ biến. Nghề mộc khá phát triển cùng với việc đóng thuyền bè đi biển. Việc phát hiện ra đồ gốm và tầng văn hóa dày dặn đã chứng minh họ đã là những người định cư lâu dài và đã lập làng xóm.

Người cổ Hạ Long còn biết tự làm đẹp. Họ ưa chế tạo đồ trang sức từ vỏ ốc biển như vỏ ốc cypraea, được mài thủng lưng để xâu dây đeo quanh cổ, dùng xương sống cá và vỏ nhuyễn thể làm hạt chuỗi, vòng tay. Họ cũng làm vòng đeo tay bằng cách khoan, tiện, mài những cục đá. Những mũi khoan đá tìm được khá nhiều đã nói lên cách làm vòng tay công phu. Những bàn mài ở văn hóa Hạ Long có những nét riêng biệt khi để lại bề mặt dấu vết mài hình lòng máng mà các nhà khoa học thường gọi là “dấu Hạ Long”, đặc trưng ít gặp ở các nền văn hóa khác.

Đồ trang sức bằng vỏ sò

Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm được di cốt của chính chủ nhân văn hóa Hạ Long. Các xương cốt cho thấy họ thuộc đại chủng Mongoloid da vàng, nhưng vẫn còn có yếu tố Australoid hòa trộn. Chính những tộc người cổ của Hạ Long đã góp một phần vào sự hình thành của dân tộc Việt hiện đại ngày nay. Trước khi người Hạ Long sinh sống nơi đây, trên vùng biển Đông Bắc nước ta đã có cư dân của các nền văn hóa sớm hơn sinh tụ như nền văn hóa Soi Nhụ, Cái Bèo.

Ngày nay, du khách trong và ngoài nước có thể đến vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và nhiều hòn đảo khác để nghe về một vùng truyền thuyết về Rồng (một trong 4 con vật tứ linh trong tâm thức người Việt) đã từng bay xuống mảnh đất này. Họ cũng thấy được trong cảnh sắc nước non của một địa danh di sản thế giới và đến thăm các địa điểm khảo cổ thuộc văn hóa Hạ Long còn để lại ngay trong hang động và lòng đất của các đảo, tận mắt chứng kiến các di vật còn nằm trong hơn 30 di tích, phần lớn tập trung quanh thành phố Hạ Long và khu du lịch Tuần Châu nổi tiếng.

Điểm kết của chuyến du ngoạn vịnh Hạ Long, có một địa chỉ cần dừng lại lâu hơn, chính là nhà Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Ninh, nơi trưng bày khá đầy đủ hiện vật của văn hóa Hạ Long. Bảo tàng ở ngay trung tâm thành phố Hạ Long, khá tiện lợi cho du khách tham quan.

Nguồn: http://www.vntravellive.com/news/van-hoa-ha-long-giai-doan-hau-ky-thoi-dai-do-da-moi-1072.html

Văn hóa Bắc Sơn

Văn hóa Bắc Sơn thuộc sơ kỳ thời đại đá mới của người nguyên thủy nảy sinh từ trong lòng văn hóa Hòa Bình.

Image

Văn hóa Bắc Sơn thuộc sơ kỳ thời đại đá mới của người nguyên thủy nảy sinh từ trong lòng văn hóa Hòa Bình. Các di tích thuộc văn hóa Bắc Sơn được phát hiện trong các núi đá vôi Bắc Sơn (thuộc tỉnh Lạng Sơn) và tỉnh Bắc Cạn. Các di tích này cũng tìm thấy trong vùng phân bố của văn hóa Hòa Bình như Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình,…

Cư dân Bắc Sơn mặc dù đã biết đến nông nghiệp nhưng nguồn sống chính vẫn là nhờ săn bắt và hái lượm. Một thành tựu kỹ thuật mới của cư dân Bắc Sơn là đã biết chế tác đồ gốm. Đồ gốm Bắc Sơn thường có miệng loe và đáy tròn. Độ nung của gốm chưa cao. Mặc dù văn hóa Bắc Sơn đã đạt đến trình độ cao hơn văn hóa Hòa Bình, đã là một văn hóa mới có gốm sơ kỳ, nhưng cấu trúc xã hội của cư dân Bắc Sơn vẫn nằm trong khuôn khổ công xã thị tộc mẫu hệ.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&Itemid=33&id=594

Sưu tập công cụ cuội văn hoá Sơn Vi

Văn hóa Sơn Vi là di chỉ văn hóa được lấy tên theo địa phận xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là nơi đã phát hiện đầu tiên các công cụ cuội ghè, đẽo. Tập trung chủ yếu tại các di chỉ: Sơn Vi, Vườn Sậu, Sóc Lọi, Làng Nghìa, Núi Thắm, Phân Đậu, Phân Muồi, Núi Nỏn,…

Cho đến nay các nhà khảo cổ học đã phát hiện 105 địa điểm của địa bàn tỉnh Phú Thọ, trên 230 địa điểm Sơn Vi trong cả nước. Nhiều nhất là ở tỉnh Phú Thọ 105 địa điểm, Yên Bái 39 địa điểm, Sơn La 22 địa điểm, Lai Châu 18 địa điểm, Bắc Giang 13, Lâm Đồng 2, Quảng Trị 1,… Qua các hiện vật thu được trên địa bàn cả nước cũng như trong tỉnh Phú Thọ các nhà nghiên cứu xác định rằng văn hóa Sơn Vi thuộc giai đoạn hậu kỳ đá cũ lấp vào khoảng trống lịch sử từ sơ kỳ đá cũ lên sơ kỳ đá mới. “Văn hóa Sơn Vi có niên đại mở đầu vào khoảng 23.000 năm chấm dứt vào khoảng 11.000 năm cách ngày nay” (Hà VănTấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình năng Chung, 1999);

 

Địa bàn phân bố Sơn Vi khá rộng, không chỉ ở phía Bắc mà còn ở Bắc Trung Bộ, phân bố không đồng đều trên hai loại hình cơ bản: Loại hình hang động – mái đá phân bố rải rác, đan xen ở vùng núi đá vôi Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, ở những hang cao và đầu nguồn các con suối. Và loại hình đồi gò – thềm sông: Các địa điểm Sơn Vi tập trung thành 4 vùng hay 4 nhóm lớn: Trung lưu sông Hồng; thượng lưu sông Đà; thượng lưu sông Lục Nam và thượng lưu sông Cả.

Từ trước đến nay các nhà khoa học đã chứng minh một trong những nguồn hợp hình thành văn hóa thời Hùng Vương là các văn hóa tiền Đông Sơn kế tiếp nhau ở lưu vực sông Hồng, với các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Việc phát hiện văn hóa Sơn Vi cho chúng ta biết được tổ tiên xa xăm hơn trên đất tổ Vua Hùng dựng nước.

Từ khi phát hiện ra nền văn hóa này vào năm 1968, các nhà khoa học có rất nhiều điều phải bàn như: Niên đại văn hóa Sơn Vi, địa bàn cư trú, sự có mặt của văn hóa Sơn Vi trong hệ thống di chỉ thuộc khu vực Đông Nam Á, vấn đề mảnh tước trong văn hóa Sơn Vi, dấu tích di cốt động vật,… Ở đây thông qua bộ sưu tập này Bảo tàng Hùng Vương giới thiệu với người xem về loại hình công cụ, nguyên liệu, chất liệu, kỹ thuật chế tác, chức năng sử dụng các công cụ của cư dân Sơn Vi đó là một trong những cách thức trong việc xác định mối quan hệ về bước chuyển biến từ văn hóa Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) lên văn hóa Hòa Bình (Sơ kỳ đá mới).

Trong hơn một thế kỷ qua ngành khảo cổ học đã có những đóng góp không nhỏ trên địa bàn vùng đất tổ với những phát hiện khảo cổ: Văn hóa Sơn Vi (cách ngày nay 11 vạn năm), Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn (đến 2000 năm). Hiện nay trong kho hiện vật Bảo tàng tỉnh Phú Thọ đang lưu giữ rất nhiều bộ sưu tập quý giá là các văn hóa sơ sử kế tiếp nhau tương ứng với thời kỳ Hùng Vương ở lưu vực sông Hồng và có một bộ sưu tập hiện vật có ý nghĩa giá trị lịch sử hết sức to lớn đối với tiến trình lịch sử của dân tộc, đó chính là bộ sưu tập công cụ cuội của nền văn hóa Sơn Vi được trưng bày trong hai tủ với số lượng hơn 40 công cụ với đầy đủ các loại hình.

Các nhà khảo cổ khẳng định: “Đặc trưng nổi bật trong công cụ đá văn hóa Sơn Vi là việc sử dụng cuội sông, suối để chế tác công cụ. Đó là nguồn nguyên liệu tại chỗ được người xưa tuyển chọn có hình dáng khá ổn định đối với từng loại hình và từng nhóm di vật cụ thể.” (Hà Văn Tấn – Nguyễn Khắc Sử – Trình Năng Chung 1999, 129). Về chất liệu các loại đá trong sưu tập Sơn Vi thường được xác định dựa vào màu sắc để đoán nhận. Theo các công trình đã công bố đều thống nhất chất liệu được người Sơn Vi sử dụng là đá Quartzite đôi khi có cả đá cát kết, basalte, porphyrite, phtanite, bộ sưu tập Sơn Vi trong Bảo tàng tỉnh Phú Thọ được xác định là đá Quartzite.

Về loại hình và kỹ thuật chế tác: Công cụ đặc trưng của loại hình văn hóa Sơn Vi được chia làm hai nhóm: công cụ cuội nguyên bao gồm chày, bàn nghiền, hòn ghè và nhóm công cụ cuội ghè đẽo. Trong các sưu tập Sơn Vi nhóm công cụ cuội nguyên rất ít, nhóm công cụ cuội ghè đẽo có số lượng nhiều và loại hình phong phú, sưu tập công cụ cuội trong Bảo tàng chủ yếu là nhóm công cụ cuội ghè đẽo bao gồm:

Những công cụ rìa lưỡi ngang: Kích thước trung bình chiều dài từ 9cm đến 12cm, chiều rộng từ 7cm đến 9cm, lưỡi hẹp, thân dài ghè ít lớp, góc lưỡi nhỏ. Với loại hình công cụ này cho thấy đã được cư dân Sơn Vi sử dụng kỹ thuật ghè đẽo là chủ yếu, những loại công cụ này thường được ghè vài nhát, ghè một lớp theo hướng, có đốc cầm dài. Cũng vẫn loại hình công cụ rìa ngang nhưng thân cuội cực ngắn, ghè sát đến phần đầu hẹp viên cuội được gọi là núm cuội, khiến cho viên cuội có đốc cầm cực ngắn (10,5 x 6,5 cm).

Những công cụ rìa lưỡi dọc với lưỡi dài, thân ngắn, ghè ít hoặc nhiều lớp, góc lưỡi hẹp hoặc lớn, loại công cụ này được làm từ loại cuội bầu dục dẹt, mỏng. Kỹ thuật ghè tạo một lớp lưỡi ghè mỏng chạy dọc theo chiều dài của viên cuội. Kích thước chiều dài từ 11cm đến 13cm, chiều rộng từ 3cm đến 6cm.

Công cụ phần tư viên cuội được sử dụng kỹ thuật bổ cuội, chặt bẻ sau đó các loại công cụ này được sử dụng kỹ thuật ghè, đẽo tạo rìa tác dụng từ cuội bổ. Kỹ thuật chặt bẻ trong Sơn Vi tạo ra công cụ phần tư viên cuội (chiều dài từ 9cm đến 13cm, chiều rộng từ 5cm đến 8cm), còn trong văn hóa Hòa Bình tạo công cụ rìu ngắn. Sử dụng công cụ từ cuội bổ chính là tận dụng nguồn nguyên liệu trong điều kiện khan hiếm và giảm thiểu quy trình ghè đẽo tạo rìa tác dụng.

Bộ công cụ rìa lưỡi xiên tại Bảo tàng có kích thước (chiều dài từ 7cm đến 15cm, chiều rộng từ 4,7cm đến 12cm) làm từ cuội dẹt, ghè một mặt, thường cuội mỏng ghè ít lớp, cuội dày ghè nhiều lớp. Loại công cụ này còn được gọi là công cụ lưỡi lệch.

Ngoài ra trong bộ sưu tập này còn có các loại công cụ hai rìa, ba rìa, công cụ mũi nhọn, công cụ đa rìa, một số mảnh tước, vẫn sử dụng kỹ thuật ghè đẽo là chủ yếu. Trong loại hình công cụ đa rìa kỹ thuật ghè được sử dụng để ghè hết một mặt lớn của vỏ cuội tự nhiên, được ghè từ một lớp đến nhiều lớp khác nhau tạo thành rìa cạnh sắc.

Như vậy trong văn hóa Sơn Vi kỹ thuật ghè đẽo được sử dụng chủ yếu trên hòn cuội tự nhiên, kết hợp với bổ cuội để tạo phần tư viên cuội làm công cụ trong điều kiện tận dụng nguyên liệu tại chỗ và kỹ thuật chặt bẻ là một thủ pháp đặc thù trong kỹ thuật Sơn Vi. Chặt bẻ là khâu thứ hai tiếp theo sau khi đã tạo ra được công cụ có rìa lưỡi. Chặt đôi công cụ rìa dọc để tạo ra được công cụ phần tư cuội, chặt đốc công cụ rìa lưỡi hẹp để tạo ra những chopper đốc ngắn và phẳng. Cũng vẫn sử dụng các kỹ thuật ấy đến văn hóa hòa Bình đã có một bước phát triển hơn tạo thành rìu đá kết hợp với kỹ thuật mài.

Về công dụng: Các loại công cụ trên được cư dân Sơn Vi sử dụng hàng ngày như những loại dụng cụ chặt, cắt, đập, giã, nghiền trên các vật dụng sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày như rau, cỏ, thịt thú rừng,… Từ những chứng tích về văn hóa Sơn Vi ta có thể hình dung đôi nét về cuộc sống của cư dân lúc đó: họ sống trên những hang cao, đầu nguồn các con suối và đồi gò thấp, ven sông, dựa vào kinh tế săn bắt hái lượm, chưa có kinh tế sản xuất nông nghiệp, chưa biết làm đồ gốm. Tại Phú Thọ văn hóa Sơn Vi tập trung chủ yếu tại vùng ngã ba sông, đồi gò của huyện Lâm Thao, ngoài ra còn có ở vùng đồi gò dọc bờ sông Thao và sông Lô thuộc các huyện Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng, Cẩm Khê, Phù Ninh, Tam Nông,…

Thông qua bộ sưu tập này chúng tôi muốn giới thiệu đến đông đảo bạn đọc về một nền văn hóa xa xôi mà Phú Thọ vinh dự, tự hào mang tên nền văn hóa đó, văn hóa Sơn Vi – Phú Thọ là một trong những trung tâm thời đại đá cũ của Việt Nam, lấp vào khoảng trống lịch sử từ sơ kỳ đá cũ lên sơ kỳ đá mới, giúp các nhà khoa học khẳng định một cách chắc chắn về nguồn gốc của con người thời kỳ tiền Hùng Vương và Hùng Vương trên vùng đất cổ của Tổ quốc.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/hien-vat-dac-sac/396-suu-t-p-cong-c-cu-i-van-hoa-son-vi

Di chỉ khảo cổ học Thần Sa (Thái Nguyên)


1. Tên di tích: Khu di tích khảo cổ học Thần Sa
2. Loại công trình: Khu vực khảo cổ
3. Loại di tích: Di tích khảo cổ học
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia: theo quyết định số 147/VH-QĐ ngày 24 tháng 12 năm 1982
5. Địa chỉ di tích: Xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
6. Tóm lược về thông tin di tích:
Khu di tích Thần Sa nằm gọn trong địa phận xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 25 km theo đường chim bay về phía Bắc. Những dãy núi đá vôi dày đặc thuộc phần cuối của sơn hệ Bắc Sơn và những dải thung lũng hẹp dọc theo đôi bờ sông Thần Sa là nét đặc trưng của địa hình Thần Sa. Chính trong các hang động ở Thần Sa, vào những năm 70 – 80 của thế kỉ XX các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được một loạt các di chỉ khảo cổ có niên đại từ trung kì đá cũ đến sơ kì thời đại đồ đá mới (30.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay) như: Phiêng Tung, Ngườm, Nà Ngùn, Thắm Choong, Hạ Sơn1, Hạ Sơn 2,…

Từ La Hiên (cây số 22 – Quốc lộ 1B Thái Nguyên – Lạng Sơn) đi thẳng đến trung tâm xã Thần Sa, sau đó xuyên qua bản Trung Sơn của người Tày, đi dọc sông Thần Sa, chỉ khoảng 1km là tới chân núi Mèo. Hang Phiêng Tung nằm giữa núi Mèo, ở độ cao khoảng 50m so với chân núi. Phiêng Tung nghĩa tiếng Tày là cao và bằng phẳng. Do từ bản Trung Sơn nhìn lên thấy cửa hang giống như miệng con Hổ đang há ra nên dân trong vùng gọi là hang Miệng Hổ. Hang rộng và thoáng, có hai tầng. Tầng trên nhỏ, không có tầng văn hoá. Tầng dưới cao 10m, rộng 10m, sâu 20m, rất thuận tiện cho người nguyên thuỷ cư trú. Qua 4 đợt khai quật vào các năm 1972, 1973, 1980 các nhà khảo cổ học đã thu thập được 659 công cụ đá với nhiều loại hình công cụ “khác lạ về kỹ thuật chế tác”. Đó là các loại: Công cụ hòn cuội, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh cuội, công cụ mảnh tước.

Mái đá Ngườm, di chỉ quan trọng nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa, nằm trên sườn núi phía Bắc dãy núi Ngườm, thuộc bản Trung Sơn, cách Phiêng Tung chừng 1km về phía Nam. Đây là một mái đá khổng lồ, chiều rộng chừng 60m, chiều cao 30m, nằm ở độ cao 30m so với mặt sông Thần Sa chảy ngang trước mặt. Hố khai quật của di chỉ Ngườm cho thấy địa tầng có 4 tầng văn hoá khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của nền văn hoá Bắc Sơn, Hoà Bình, Sơn Vi nằm ở tầng 1, tầng 2, ở tầng 3 thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ở tầng văn hoá thứ 4, là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung. Ở Phiêng Tung và Ngườm, những công cụ mũi nhọn, công cụ nạo và kỹ thuật gia công lần thứ hai giống những công cụ và kỹ thuật điển hình của văn hoá Mút-xchi-ê, nền văn hoá tiêu biểu cho thời đại trung kì đồ đá cũ thế giới và gần gũi với nền văn hoá Trung kỳ đá cũ Ấn Độ Nevasien.

Những phát hiện khảo cổ học ở Phiêng Tung và Ngườm đã giúp các nhà khảo cổ học xác định được: Ở Thần Sa, ở Việt Nam có một nền văn hoá khảo cổ đá cũ – văn hoá Thần Sa. Chủ nhân của nền văn hoá Thần Sa là những người Homo Sapien (người khôn ngoan). Lần đầu tiên ở Việt Nam Giáo sư Hà Văn Tấn đã xác lập một kỹ nghệ khảo cổ học mới “Kỹ nghệ Ngườm”. Tại thung lũng Thần Sa, ngoài hai địa chỉ quan trọng nhất là Ngườm và Phiêng Tung, trong vòng bán kính vài cây số kể từ di chỉ Phiêng Tung còn có tới gần 10 di chỉ từng là nơi cư trú của người nguyên thuỷ. Đó là Ranh 1, Ranh 2, Ranh 3, Nà Ngùn, Nà Khù, Hạ Sơn 1, Hạ Sơn 2, Thắm Choong,…Thần Sa là nơi người nguyên thuỷ đã sống liên tục trong thời gian dài vài chục nghìn năm, từ thời đại đá cũ đến hậu kỳ đá mới, là nơi mà các phát hiện khảo cổ quan trọng đã góp phần chứng minh sự xuất hiện và phát triển liên tục của con người thuộc các nền văn hoá khảo cổ trên đất Việt Nam, từ Núi Đọ qua Thần Sa, Sơn vi, Hoà Bình, Bắc Sơn,… để bước sang thời sơ sử – thời đại kim khí với nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ. Ở Châu Á chỉ có di tích Lang Giong Riêng của Thái Lan và Bạch Liên Động ở Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với di tích khảo cổ học Thần Sa.

Do có một ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học, có một vị trí đặc biệt trong việc tìm hiểu về lịch sử tiến hoá của con người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam nói riêng và cả vùng Đông Nam Á lục địa, khu di tích khảo cổ học Thần Sa được Nhà nước xếp hạng Quốc gia năm 1982 và được Bộ Văn hoá Thông tin đưa vào mục Di tích đặc biệt của Quốc gia.

Nguồn: ditichlichsu.com