Archives

3 tôn giáo du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc

Trên cơ sở một nền văn hóa bản địa vững chắc, kết tinh bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống của người Việt cổ với ý thức hệ cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quý, gắn bó với quê hương, đất nước, tổ tông mà các thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc đã xây dựng nên, bởi vậy, dù cho các triều đại phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc ta, nhằm thủ tiêu nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, nhưng kết cục trước cuộc đấu tranh mãnh liệt của nhân dân ta, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đó vẫn giữ được vị trí chủ thể và có tác dụng Việt hóa những yếu tố văn hóa ngoại nhập. Những yếu tố văn hóa từ bên ngoài đều thông qua chủ thể văn hóa Việt Nam mà phát huy tác dụng và làm phong phú thêm nền văn hóa cổ truyền.

Nho giáo là sự tổng hợp những tư tưởng, triết lý, luân lý, đạo đức và thể chế cai trị ở Trung Quốc có từ thế kỷ VI – V Tr.CN do Khổng Tử và các học trò của ông xây dựng và về sau được phát triển, ổn định trong Tứ thư: Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử và Ngũ kinh: Thi, thư, dịch, lễ, xuân thu. Với tam cương: đạo vua – tôi, đạo cha – con, đạo vợ – chồng và ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, Nho giáo chủ trương tôn trọng và bảo vệ chế độ đẳng cấp, trật tự xã hội bóc lột, trung thành tuyệt đối với nhà vua – hoàng đế Trung Hoa. Với mục đích đồng hóa dân tộc ta, nhà nước phong kiến Trung Hoa đã sử dụng chữ Hán và Nho giáo như một công cụ để thực hiện, tuy nhiên, sau một thời gian dài, tôn giáo này vẫn chỉ dừng lại ở tầng lớp trên của xã hội, chưa thể xâm nhập vào xóm, làng của người Việt.

Đạo giáo là một tôn giáo, tín ngưỡng ở Trung Quốc, là một hỗn hợp nhiều thứ mê tín dị đoan và phương thuật như đoán mộng, xem sao, đồng cốt, chữa bệnh bằng phù phép, bói toán,… được hệ thống hóa bởi một hệ thống thần điện, đạo tạng, đền miếu. Đạo giáo khi du nhập vào nước ta đã hòa quyện với tín ngưỡng dân gian Việt cổ.

Phật giáo ra đời từ thế kỷ VI Tr.CN ở Ấn Độ, do Thích Ca Mâu Ly sáng lập. Lúc mới ra đời, đạo Phật có nội dung tích cực trong cuộc đấu tranh chống chế độ đẳng cấp khắc nghiệt ở Ấn Độ, được đông đảo nhân dân bị trị hưởng ứng. Về sau đạo Phật bị giai cấp thống trị lợi dụng và biến nó thành một tôn giáo chính thống của nhà nước. Những mặc tích cực của Phật giáo như chủ trương bình đẳng, bác ái, vị tha, làm điều lành, chống điều ác,… bị giai cấp thống trị cắt xén, xuyên tạc, phát triển mặt tiêu cực để làm công cụ đàn áp, thống trị nhân dân lao động. Tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ có những nét phù hợp với học thuyết của đạo Phật như kêu gọi mọi người làm điều nghĩa, có lòng nhân ái vị tha, thuyết nhân quả nghiệp báo, nên được đông đảo nhân dân hưởng ứng.

Về nền kinh tế thời Đinh – Tiền Lê

1. Nông nghiệp

Nhà Đinh đã thực hiện chính sách phong ấp hay phong hộ nông dân cho các tướng lĩnh có công và phong ấp cho các hoàng tử cũng như giao cho họ cai quản địa phương có ấp của mình. Ruộng đất nói chung vẫn thuộc quyền sở hữu của làng xã. Nhà nước quan tâm và khuyến khích nông nghiệp phát triển.

2. Thủ công nghiệp

Tiếp nối quá trình phát triển của thủ công nghiệp thời Bắc thuộc, các ngành nghề thủ công thời Đinh – Tiền Lê cũng ngày càng mở rộng hoạt động. Theo phương thức thời Đường, nhà nước Đinh – Tiền Lê xây dựng một số quan xưởng chuyên sản xuất thủ công cần thiết cho mình. Hình thành những xưởng đúc tiền, rèn vũ khí, may mũ áo, xây dựng cung điện, nhà cửa, chùa chiền.

Trong nhân dân, các nghề thủ công cổ truyền như kéo tơ, dệt lụa, làm đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng, làm giấy đều phát triển. Nghề đóng thuyền, làm đồ vàng, bạc xuất hiện ở nhiều nơi, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao.

3. Ngoại thương

Trao đổi buôn bán giữa các miền khá thường xuyên, chợ búa mọc lên ở nhiều nơi. Hoa Lư, Long Biên, Đại La, Luy Lâu trở thành những trung tâm buôn bán thời kỳ này. Để góp phần vào phát triển thương nghiệp và cũng là để khẳng định ý thức làm chủ đất nước của mình, từ đầu thời Đinh nhà nước đã cho đúc tiền “Thái Bình”. Đến năm 984, vua Lê lại cho đúc tiền “Thiên Phúc”. Thời kỳ này nước ta có sự giao thương với nhà Tống – Trung Quốc.

Nhìn chung, sự phát triển kinh tế dưới thời Đinh – Tiền Lê khá đều đặn và đa dạng. Nó đã tạo điều kiện nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố nhà nước trung ương tập quyền vừa nâng cao sức chiến đấu của nhà nước thời Đinh – Tiền Lê.

Tóm tắt về bộ máy quản lý nhà nước thời Lý – Trần

Bộ máy quản lý nhà nước thời Lý được xây dựng trên định hướng tập trung quyền lực vào nhà vua, bao gồm hai cấp là cấp triều đình và cấp địa phương. Nhà vua có uy quyền tuyệt đối, lãnh đạo và điều hành mọi công việc của đất nước. Trong triều đình, dưới vua có các quan đại thần để cùng bàn bạc việc nước với vua. Dưới quan đại thần còn có quan lại ở các sảnh, các viện. Để thuận tiện cho việc quản lý, nhà Lý chia khu vực hành chính ra thành 3 cấp là phủ/lộ, huyện và hương.

Song song với hệ thống quan lại thông thường, do ảnh hưởng của Phật giáo, thời nhà Lý còn có hệ thống tăng quan với mục đích giúp nhà vua quản lý các tăng đồ về mặt hành chính, đồng thời cũng là hệ thống giúp bảo vệ quyền lợi của Phật giáo.

Sang thời Trần, nhà Trần thay nhà Lý tiếp tục củng cố tổ chức nhà nước theo hướng tập trung quyền lực vào nhà vua. Đặc biệt, để đảm bảo quyền lực cho nhà vua, nhà Trần còn áp dụng chế độ Thái thượng hoàng.

Bộ máy quản lý nhà nước vẫn chia thành hai cấp là triều đình và các cấp địa phương. Tại triều đình có bộ phận trung khu gồm các Tể tướng, Tri mật viện sự và Hành khiển ở môn hạ sảnh có nhiệm vụ chỉ đạo các quan văn võ. Dưới trung khu có các cơ quan chức năng là 6 bộ: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Đây là điểm khác biệt tiến bộ so với thời Lý khi có sự tách biệt giữa bộ phận quản lý và bộ phận thực hiện công việc. Ở các địa phương, nhà Trần cũng chia tổ chức chính quyền thành ba cấp: phủ/lộ, huyện/châu, hương/xã.

Nhìn chung, trải qua gần bốn thế kỷ, bộ máy quản lý nhà nước thời Lý – Trần đã được xây dựng theo lối chính quy, bao quát khắp mọi cấp, mọi lĩnh vực và từng bước được hoàn thiện về mặt tổ chức từ trung ương đến địa phương.

Về vương quốc Chămpa

1. Sự thành lập

Chămpa được thành lập vào thế kỷ thứ II, ban đầu có tên là Lâm Ấp, thế kỷ thứ VII mới đổi thành Chămpa.

Buổi đầu kinh đô của vương quốc này được đặt tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam. Nhưng vào giữa thế kỷ thứ VIII, đã được dời xuống phía nam và đặt ở khu vực Phan Rang, Nha Trang ngày nay. Đồng thời lúc này thư tịch cổ không còn chép là Lâm Ấp nữa mà gọi là Hoàn Vương.

Từ thế kỷ thứ IX kinh đô Chămpa có nhiều thay đổi. Vương quốc Chămpa lúc này gồm 5 tiểu vương quốc nhỏ khác nhau:

+ Tiểu vương quốc Indrapuda nay là khu vực Đồng Dương – Quảng Nam

+ Tiểu vương quốc Amaravati thuộc Đà Nẵng, Quảng Nam và có lúc cả khu vực Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay.

+ Vijaya thuộc Bình Định, Quảng Ngãi

+ Kauthara là khu vực Phú Yên, Khánh Hòa

+ Và Panduranga thuộc khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay.

=> Như vậy, mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau các vị vua Chiêm lại có sự thay đổi về kinh đô của mình.

2. Vị trí địa lý

Vương quốc Chămpa ở vào vị trí tuyệt đẹp ngay nơi gặp gỡ của các con đường hàng hải lớn của Đông Á. Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X người Chăm kiểm soát việc buôn bán gia vị giữa Đông Nam Á hải đảo và Trung Quốc, buôn bán tơ lụa giữa đế chế nhà Đường và đế chế Abbassid của Bagdad. Ngoài ra họ còn xuất ngà voi và gỗ trầm của họ sang Trung Quốc và cho người Ả Rập. Cùng với việc là chủ nhân của một nền hàng hải phát triển, cư dân Chăm pa còn được biết đến là những kẻ cướp biển nổi tiếng ở tất cả các biển phía Nam.

Vị trí địa lý thuận lợi không những giúp vương quốc Chămpa phát triển thương mại với các nước trong khu vực, mà còn tạo điều kiện cho sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa với 2 nước giáp ranh là Đại Việt ở khu vực phía bắc và Phù Nam ở khu vực phía nam.

3. Đời sống kinh tế sản xuất

Vào buổi đầu người Chămpa chủ yếu sống trên núi hơn là đồng bằng. Họ sống bằng các sản phẩm họ săn bắn, hái lượn và đánh bắt được. Về sau họ bắt đầu biết làm nông nghiệp, họ trồng mía, chuối, dừa, tiêu, trầu, cau và đủ các loại cây trồng để làm bện dây, làm chiếu và làm đồ đan lát.

Trong nông nghiệp họ sản xuất hai mùa mỗi năm, gạo trắng vào tháng 10 và gạo đỏ vào tháng 4. Mặc dù nông nghiệp được coi là một ngành sản xuất chính của Chăm pa, nhưng sự giàu có của vương quốc này từng khiến người Trung Quốc thèm thuồng lại được tạo ra từ mỏ, từ rừng, thương mại và cướp biển.

4. Đời sống xã hội tinh thần

Theo mô tả của các giả Trung Quốc thì người dân của vương quốc này có da đen, mắt sâu, mũi thẳng và cao, tóc quăn. Người dân búi tóc, phụ nữ búi tóc hình cái búa, xâu lỗ tai để đeo những chiếc vòng nhỏ bằng kim loại. Họ rất sạch, hàng ngày tắm rửa nhiều lần, xức dầu thơm, chà cơ thể với dầu long não và xạ hương, xông quần áo với một thứ hỗn hợp các loại gỗ thơm khác nhau. Nam nữ ăn mặc như nhau, y phục gồm một tấm vải bông quấn quanh người từ phải qua trái, từ lưng tới chân, người sang mang giày, người thường đi chân đất (1).

Nhà vua đội một cái mũ cao, có trang trí bông bằng vàng và một túm tua bằng lụa. Khi đi ra ngoài, nhà vua cưới trên một con voi, trống và tù và đi trước, có lọng bằng vải cát bối và có các gia nhân cầm cờ cũng bằng loại vải này vây quanh.

Hôn nhân của người Chăm được được cử hành vào tháng 8 và nữ đi hỏi rể trước.

Đám tang nhà vua cử hành 7 ngày sau khi vua mất, hài cốt vua được đựng trong một cái bình bằng vàng và ném xuống biển. Quan thì của hành sau 3 ngày và hài cốt được đựng trong một bình bằng bạc. Dân thì cử hành ngay ngày hôm sau và hài cốt được đựng trong một cái bình bằng đất nung.

Tôn giáo của Chăm pa từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX là Bà La Môn giáo, trong đó thần Shiva được tôn thờ đặc biệt. Họ dựng lên đền thờ để tôn kính các vị thần như là một biểu tượng mang hình ảnh của chính họ. Dưới nét của các vị thần linh họ sẽ nhập vào sau khi qua đời. Vì vậy mà người ta gặp ở đây cũng như ở khắp Đông Nam Á sự cộng sinh giữa việc thờ cúng tổ tiên với các thần linh và tư tưởng tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.

1. Mã Đoan Lâm, Dân tộc học các dân tộc ngoài Trung Quốc, vùng phía Nam, trang 420-425; G. Maspero, Le Royaume de Champa [Vương quốc Chămpa], Paris, 1928, trang 8 tt.

Một góc nhìn khác về sự thành lập vương triều Lý

Lê Long Đĩnh trên ngôi vua tỏ ra là một người độc ác, khát máu, lấy việc chém giết làm thú tiêu khiển. Vì vậy, mà phái tăng đạo mấy lâu vẫn ủng hộ nhà Lê, cũng không chịu nổi những hành động tàn bạo của Long Đĩnh – việc Long Đĩnh ngược đãi sư Quách Ngang có thể là chứng tỏ mối mâu thuẫn giữa nhà vua và phái tăng nhân đã có thái độ đối lập.

Sư Vạn Hạnh từng làm cố vấn cho Lê Hoàn, đã chán gét nhà Lê đến nỗi đặt ra câu sấm đoán trước sự diệt vong của nhà Lê và sự hưng khởi của nhà Lý để khuyên Lý Công Uẩn cướp ngôi.

Nhân lòng oán ghét của tất cả các tầng lớp xã hội đối với nhà Lê, Lý Công Uẩn là Điện tiền chỉ huy sứ trông nom quân cận vệ, quyết định thực hiện âm mưu soán đoạt. Lý Công Uẩn vốn quê ở làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay), khi nhỏ làm con nuôi nhà sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Vân nên lấy họ là Lý. Công Uẩn khéo thu phục được tình cảm của tất cả quân lính ở dưới tay mình và được bọn quan liêu văn võ trong triều kính phục. Sau khi Long Đĩnh chết năm 1009 – vì nhiều bệnh tật nên Long Đĩnh chết non mới 24 tuổi – Công Uẩn âm mưu với một người bộ hạ là Đào Cam Mộc để giảng dụ bọn triều quan tôn Công Uẩn làm vua. Mọi người đều theo Cam Mộc bèn tổ chức lễ đăng cực cho Công Uẩn. Vương triều Lý được thành lập.

Theo “Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX, quyển thượng, Nxb Xây dựng, 1955”.

Sự ra đời và ý nghĩa của nhà nước Âu Lạc theo Đào Duy Anh

Năm 218 TCN Doanh Chính (tức Tần Thủy Hoàng) phát 50 vạn quân đi xâm lược Bách Việt. Trong vòng 3 năm quân Tần đã chinh phục được cả các nhóm Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt và các bộ lạc phía Bắc Quảng Tây. Nhưng khi tiến vào Lạc Việt thì vấp phải một cuộc kháng chiến kịch liệt của người Lạc Việt.

Các bộ Lạc Việt dưới sự hiệu triệu của Lạc vương, đã họp hội nghị để bàn kế đối phó và cử Thục Phán làm lãnh tụ quân sự để kháng chiến. Khi quân Tần đóng đô ở miền “đất không người” đã chán nản mỏi mệt, khổ vì thiếu lương thực và khí hậu độc địa, thì người Lạc Việt do Thục Phán lãnh đạo mới bắt đầu dùng cách du kích để quấy rối, cứ ban ngày thì lấp ở trong rừng không chịu gặp địch, ban đêm chia nhau từng tốp kéo ra đánh phá, giết hại quân Tần. Bị tổn hại rất nhiều cuối cùng đến năm 208 nhà Tần thất bại.

Trong cuộc kháng chiến lâu dài ấy, Thục Phán đã củng cố sự đoàn kết giữa các bộ lạc Lạc Việt và các bộ lạc Tây Âu đồng minh, thành một cuộc liên minh quân sự rộng lớn. Thục Phán đã tổ chức được một đội quân đặc biệt, do đó mà gây thêm lực lượng và quyền uy của mình trong cuộc liên minh. Sau khi kháng chiến thắng lợi Thục Phán được tất cả các tù trưởng phục tùng, đã thừa thế mà lấn át quyền uy của Lạc vương, nắm lấy trong tay cả quyền lãnh tụ quân sự và quyền lãnh tụ chính trị. Có đủ điều kiện xây dựng một nước, Thục Phán đã họp các bộ lạc Tây Âu đồng minh và các bộ lạc Lạc Việt mà dựng thành nước Âu Lạc.

Thục Phán xưng vương lấy niên hiệu là An Dương Vương dựng đô ở Loa thành (nay thuộc Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội).

Xã hội Âu Lạc vẫn còn ở giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thủy với chế độ nô lệ mới nảy nở theo hình thức nô lệ chế gia trưởng. Nhưng sự thành lập nước Âu Lạc là một bước rất quan trọng trong lịch trình phát triển của xã hội. Một mặt khác, sự thành lập nước Âu Lạc đã chứng tỏ rằng trong khoảng các bộ lạc đương đi vào chế độ nô lệ và tập hợp thành nước Âu Lạc đã nảy nở mầm mống đầu tiên của ý thức dân tộc mà sau này dưới áp bức của ngoại quốc trong hơn mười thế kỷ không thể đè bẹp được nữa.

Sự ra đời của ba triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê

1. Triều đại nhà Ngô (939 – 965) trị vì 25 năm

Sau khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Nhà vua đã bỏ Tống Bình (Đại La), thành phố do người Trung Quốc thiết lập và lên ngôi tại Cổ Loa (kinh đô của vương quốc Âu Lạc xưa). Nhà vua mới thiết lập một triều đình nhưng còn trong tình trạng trứng nước và vương quyền cũng mới chỉ là một tước hiệu hơn là một quyền lực.

Các lực lượng tồn tại dai dẳng ở địa phương luôn có khuynh hướng chia nhỏ lãnh thổ. Ngô Quyền đã phải mất 6 năm tại ngôi để đánh bại các cuộc nổi dậy của các sứ quân; và qua đời quá sớm vào năm 944, khi ấy nền hành chính chưa thống nhất, triều đình chưa được tổ chức xong; khắp nơi trong nước các tướng lĩnh nổi dậy và giao chiến với nhau dẫn đến việc thành lập 12 sứ quân. Đất nước bị xâu xé, dân chúng khát khao hòa bình và thống nhất cần thiết cho nông nghiệp. Ý chí của quần chúng nhân dân được thể hiện nơi Đinh Bộ Lĩnh.

2. Triều đại nhà Đinh (968 – 980) trị vì 12 năm

Đinh Bộ Lĩnh là con của một thứ sử ở Hoan Châu, người Hoa Lư (Ninh Bình). Hồi nhỏ ông đã khiến các trẻ chăn trâu phải kiêng nể và tôn làm thủ lĩnh của chúng. Lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ông ngồi; lấy bông lau làm cờ, lấy tre làm giáo, và dưới quyền điều khiển của ông, kéo nhau đi tấn công lũ trẻ con các làng bên cạnh. Lớn lên, ông tới phục vụ cho sứ quân ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình). Thấy ông là người thông minh và dũng cảm, vị sứ quân này giao cho ông nắm giữ binh quyền. Sau khi sứ quân mất, Đinh Bộ Lĩnh đóng binh vững chắc ở Hoa Lư và lần lượt bắt các sứ quân khác phải hàng phục.

Năm 968, sau khi tái thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lấy tước hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình).

Vào năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng đã bị một viên thư lại trong cung điện ám sát dẫn đến sự ra đời của nhà Tiền Lê.

Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) ngày nay, kinh đô xưa của hai triều đại nhà Đinh và Tiền Lê. Ảnh: Internet.

Gạch xây thành thời Đinh – Tiền Lê. Ảnh: BTLSQG

3. Triều đại nhà Tiền Lê (980 – 1009) trị vì 29 năm

Do Vệ Vương (Đinh Toàn) là con trai của vua Đinh Tiên Hoàng lúc lên ngôi mới có 6 tuổi. Nên mọi quyền hành đều nằm trong tay Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn. Nhà Tống tính lợi dụng lúc vua còn nhỏ để lập nên ách đô hộ của Trung Quốc. Nhưng khi ấy những người theo phò tá Lê Hoàn đã tôn ông lên làm vua để chống lại quân giặc. Thái hậu Dương Vân Nga thể theo nguyện vọng của các tướng sĩ đã khoác áo bào cho Lê Hoàn.

Được sự tín nhiệm của đình thần, Lê Hoàn lấy tước hiệu là vua Lê Đại Hành đã cầm quân đánh thắng quân Tống vào năm 981. Nhưng thế lực của nhà Tống vẫn còn đáng sợ nên nhà vua đã xin cầu hòa với nhà nước Khai Phong và được Khai Phong chấp nhận. Có được hòa bình với Trung Quốc, Lê Đại Hành đã tổ chức đạo quân sang đánh Chămpa. Sau khi có được sự kính nể của cả phía Bắc và phía Nam đối với Đại Cồ Việt vua Lê Đại Hành đã cho làm đường và đào kênh để phát triển giao thông và kinh tế. Theo gương các triều đại Trung Quốc, Lê Đại Hành lập lễ tịch điền bằng cách đích thân cày những luống cày đầu tiên để vỡ đất. Ông cũng là vị vua đầu tiên cho đúc tiền Thiên Phúc (trước đó nước ta đều sử dụng tiền của Trung Quốc).

Đồng tiền “Thiên Phúc Trấn Bảo”. Ảnh: BTLSQG

Ông mất vào năm 1005 sau 24 năm trị vì và củng cố nền móng Việt Nam. Năm 1009 sau khi ông mất, con ông còn nhỏ, đình thần đã tôn một vị quan cao cấp là Lý Công Uẩn lên làm vua. Nhà Tiền Lê kết thúc.

Covatvietnam.info tóm tắt

10 điều cần biết về văn hóa Phùng Nguyên

1. Tên gọi và địa điểm

Di chỉ Phùng Nguyên được lấy làm tên xác lập cho nền văn hóa Phùng Nguyên tọa lạc tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

2. Thời gian phát hiện và khai quật

Di chỉ Phùng Nguyên được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000 m2 trong những năm từ 1959 đến 1970.

3. Địa bàn phân bố

Văn hóa Phùng Nguyên phân bố dọc theo lưu vực các con sông lớn: như sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy… tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh…

4. Niên đại

Văn hóa Phùng Nguyên được xác định có niên đại từ khoảng 4.300 năm đến khoảng 3.500 năm cách ngày nay

5. Đời sống kinh tế sản xuất

Bên cạnh săn bắn, đánh cá vẫn được duy trì từ giai đoạn trước. Cùng với trồng trọt cư dân Phùng Nguyên đã biết đến chăn nuôi.

Nghề sản xuất gốm, chế tác đồ trang sức, xe chỉ, dệt vải khá phát triển

6. Đời sống xã hội – tinh thần

Quan niệm thẩm mỹ của cư dân Phùng Nguyên đã khá phát triển được thể hiện qua việc chế tác đồ trang sức, đồ đá và đồ gốm của họ.

Trong táng thức, cư dân Phùng Nguyên chôn người chết theo tư thế nằm ngửa ở các huyệt nông và thường chôn theo công cụ bằng đá, đồ trang sức và một vài đồ gốm.

7. Kỹ thuật chế tác đá

Đạt đến đỉnh cao, hiện vật đá thời kỳ này được chế tác tinh xảo và mang phong cách hiện đại. Các hiện vật tiêu biểu là rìu, bôn, đồ trang sức (vòng tay, khuyên tai).

8. Giao lưu kinh tế

Đã có những quan hệ trao đổi với nam Trung Quốc. Việc tìm thấy tại Trung Quốc những chac (cốc) tiêu biểu của Việt Nam, và tại Phùng Nguyên những con dao ngắn (qua) tiêu biểu của Trung Quốc đã cho thấy điều này. Bên cạnh đó, tại những di chỉ thời đá mới ở Quảng Đông và Phúc Kiến (Trung Quốc), người ta đã tìm thấy nhiều chiếc rìu nhỏ tương tự rìu của văn hóa Phùng Nguyên.

9. Là giai đoạn chuyển giao

Giữa thời đại đồ đá và thời đại đồ kim khí

Giữa văn hóa Bắc Sơn và văn hóa Đông Sơn

10. Là cội nguồn của nền văn minh sông Hồng

Là cơ sở vật chất, tinh thần đầu tiên cho sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng.

 

 

Nhớ các sự kiện, dấu ấn văn hóa vương triều Lý qua cổ vật

Triều Lý kéo dài hơn 200 năm (1009 – 1225) là triều đại đầu tiên trong số các triều đại lớn của dân tộc. Triều đại này đã đem lại cho Việt Nam khung chính trị, hành chính, quân sự vững chắc mà Việt Nam chưa có, và đưa đất nước trở thành một quốc gia không chỉ chống trả các vụ xâm lược từ Trung Quốc, mà còn có thể thôn tính Chămpa để mở rộng về phía Nam.

Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là người làng Cổ Pháp (Bắc Ninh), ông được nuôi dạy trong một ngôi chùa của làng này. Tuổi trẻ, ông theo nhà sư Vạn Hạnh vào triều đình ở Hoa Lư và làm đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Sự phóng đãng của Lê Long Đĩnh đã đẩy đất nước vào tình trạng rối ren; từ lòng dân thốt lên tiếng thở dài khao khát trật tự, tổ chức và công lý;  bản thân các tù trưởng cũng ý thức được những hiểm họa trầm trọng từ cuộc khủng hoảng trong bộ phận lãnh đạo quốc gia. Vạn Hạnh với uy tín sẵn có đã thuyết phục được số người này đưa học trò của mình lên ngôi: con đường tiến tới ngôi vua của Công Uẩn không gặp cản trở nào‹¹›. Nhà vua mới lên ngôi, mở đầu triều đại bằng việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên kinh đô là Thăng Long “thành phố rồng bay lên”.

Như vậy, Giáo hội Phật giáo đã tạo thuận lợi cho việc nhà Lý lên ngôi. Đáp lại, triều Lý dành cho Phật giáo những đặc ân lớn nhất. Phẩm trật của Giáo hội được đặt dưới quyền tối cao của một Quốc sư “người thầy của vương quốc”. Quốc sư giúp nhà vua trong các nghi lễ cầu cho quốc gia được thịnh vượng và thường là nhà cố vấn riêng của nhà vua. Sự sủng ái Phật giáo của các vị vua triều Lý đã được Toàn thư ghi lại: không có năm nào mà các nhà vua không cho xây dựng chùa chiền và đúc chuông. Nước Đại Việt ta dưới triều đại nhà Lý được khoác một “tấm áo chùa chiền”.

Kiến trúc chùa Một Cột được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (Ảnh internet)

Đây được xem là thời kỳ đẹp nhất của nghệ thuật Việt Nam. Tính độc đáo của nó được cấu tạo từ tổng hợp các ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á, do những người đi hành hương mang lại, kết hợp với các yếu tố của Trung Quốc và Chăm cùng với những hồi tưởng về chính nguồn gốc Nam Á của mình. Mặc dù chịu ảnh hưởng của tất cả các ảnh hưởng này, nghệ thuật thời Lý vẫn mang một phong cách đặc biệt của Việt Nam, trong kiến trúc cũng như trong điêu khắc và gốm.

Bảo vật quốc gia – Tượng Phật A Di Đà bằng đá tại chùa Phật Tích, Bắc Ninh (Ảnh internet)

Thật vậy, ngoài những ngôi chùa và tháp còn lại đến ngày nay (dù đã được trùng tu nhiều lần) như ngôi chùa Một Cột (còn có tên gọi khác là chùa Diên Hựu hoặc Liên Hoa Đài), quán Trấn Vũ (đền Quán Thánh), đền Linh Lang (đền Voi Phục), tháp Bình Sơn… thì những mô hình chùa, tháp thu nhỏ (stupa) thời kỳ này là những bằng chứng minh xác nhất cho thấy sự thịnh vượng của Quốc giáo này.

Mô hình chùa thu nhỏ thời Lý (Ảnh tác giả)

Mô hình chùa gồm 2 tầng với 8 mái cong, viền chân và chóp phía trên đắp nổi băng cánh sen kép, cánh to xen cánh nhỏ, viền mái được tạo thành từ một dải các hình ống nhỏ chạy song song nhau, trên cùng là bông hoa sen đang nở với các cánh hoa to, mập được chạm khắc tỉ mỉ hình hoa phía ngoài. Mô hình chùa có chiều cao 1m 55, chiều dài cạnh đáy là 75 cm.

Mô hình tháp thu nhỏ thời Lý (Ảnh tác giả)

Mô hình tháp được tạo dáng hình trụ đứng với chân đế hình vuông, gồm 9 tầng nhỏ dần về phía ngọn, mỗi tầng có 4 mái cong. Mô hình tháp có chiều cao là 58 cm, chiều dài mỗi cạnh đáy là 5 cm.

Nét đặt trưng cơ bản của kiến trúc tháp thời kỳ này là mái cong. Mái cong vốn không bắt nguồn từ cái lều của người Mông Cổ như người ta vẫn nghĩ, mà là từ lều của người Nam Á‹²›. Loại mái này đã thấy xuất hiện trên các trống đồng‹³›. Ở Trung Quốc, kiến trúc được trình bày trên các phù điêu và trên đá lát hầm mộ của người Hán lại cho thấy mái nhà hoàn toàn thẳng. Chỉ dưới thời nhà Đường mới thấy xuất hiện ở Nam Trung Quốc hình dáng mái cong, nhập từ Giao Châu và từ đây được phổ biến ở Trung Quốc phía Bắc và ở Bắc Kinh.

Hình ảnh ngôi nhà mái cong trên trống đồng Đông Sơn (Ảnh internet)

Như vậy, cùng với sự lớn mạnh về chính trị, kinh tế, vương triều Lý đã cho thấy một sự nở rộ về văn hóa. Một quốc gia trẻ đã chống trả và chiến thắng được quân Tống (Trung Quốc) với tài thao lược quân sự của Lý Thường Kiệt cùng sự đồng lòng của nhân dân, trong khi vẫn có thể thôn tính Chămpa để mở rộng về phía Nam.

 

1.Việt sử lược, q.II, t. 1- 2a

2. Boerschmann, Chinesische Architektur [Kiến trúc Trung Quốc], Berlin, 1925, trang 25 – O. Sirèn, Historie des arts anciens de la Chine [Lịch sử các nghệ thuật cổ của Trung Quốc] IV, L’Architecture [Kiến trúc], Paris, Van Oest 1930, trang 24, – J.Y.Claeys, “Introduction à l’étude de I’Annam et du Champa “[Dẫn nhập vào việc nghiên cứu An Nam và Chămpa], BAVH, 1934, Paris e.

3. V.Gloubew, “La maison dongsonienne” [Nhà thuộc văn hóa Đông Sơn], CEFEO, số 14, 1938.

Sơ lược tiến trình lịch sử Việt Nam

1. Thời tiền sử

1.1. Thời đại đồ đá cũ

Sơ kỳ thời đại đồ đá cũ

+ Thời gian: 400.000 – 300.000 năm cách ngày nay

+ Di chỉ, di tích, nền văn hóa tiêu biểu: Núi Đọ (Thanh Hóa), hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), hang Hùm (Yên Bái).

+ Di vật tiêu biểu: Công cụ chặt thô, rìu tay, mảnh tước, răng vượn người, xương động vật hóa thạch.

Hậu kỳ thời đại đồ đá cũ

+ Thời gian: 30.000 – 15.000 năm cách ngày nay

+ Di chỉ, di tích, nền văn hóa tiêu biểu: Thần Sa (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ).

+ Di vật tiêu biểu: Mảnh tước có tu chỉnh, công cụ chặt thô hình múi bưởi, công cụ ¼ hòn cuội.

1.2. Thời đại đồ đá mới

Sơ kỳ thời đại đồ đá mới

+ Thời gian: 15.000 – 10.000 năm cách ngày nay

+ Di chỉ, di tích, nền văn hóa tiêu biểu: Hòa Bình (Hòa Bình và các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa), Bắc Sơn (các tỉnh vùng núi đá vôi Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên), Quỳnh Văn (Nghệ An), Đa Bút (Thanh Hóa), Cái Bèo (Hải Phòng), Bàu Dũ (Quảng Nam).

+ Di vật tiêu biểu: Rìu tay, công cụ hình đĩa, hình hạnh nhân, xuất hiện rìu mài lưỡi và buộc ghép cán.

* Đồ gốm và nền nông nghiệp sơ khai được xem là xuất hiện trong văn hóa Hòa Bình?

* Văn hóa Bắc Sơn đã tìm thấy bàn mài, bàn nghiền, chày, công cụ đá cuội có hai rãnh song song.

Hậu kỳ thời đại đồ đá mới

+ Thời gian: 10.000 – 5.000 năm cách ngày nay

+ Di chỉ, di tích, nền văn hóa tiêu biểu: Hà Giang, Mai Pha (Lạng Sơn), Hạ Long (Quảng Ninh), Bàu Tró (Quảng Bình).

+ Di vật tiêu biểu: Rìu tứ giác, rìu có vai, khuyên tai, vòng tay, đồ đựng bằng gốm?

2. Thời sơ sử (Thời kỳ dựng nước đầu tiên)

Văn hóa Phùng Nguyên

+ Thời gian: 4.000 năm cách ngày nay

+ Phát hiện năm: 1959

+ Địa bàn phân bố: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội

+ Di vật tiêu biểu: Đục, mũi khoan, cưa, khuyên tai, nhẫn, vòng đeo tay, chuỗi hạt (đá), dọi xe chỉ, hũ, bình (gốm), cục đồng và gỉ đồng.

Văn hóa Phùng Nguyên là thời kỳ công nghệ chế tác đá đạt tới đỉnh cao, đồ gốm đã biết sử dụng bàn xoay, nghề luyện kim, nghề dệt bắt đầu xuất hiện?

Văn hóa Đồng Đậu

+ Thời gian: 4.000 – 3000 năm cách ngày nay

+ Phát hiện năm: 1962 tại xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc

+ Địa bàn phân bố: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội

+ Di vật tiêu biểu: Mũi lao, mũi giáo, lưỡi câu, xỉ đồng, mảnh khuân đúc rìu, trống đồng?, trang sức, công cụ lao động bằng đá, đồ gốm?

Văn hóa Gò Mun

+ Thời gian: 4.000 – 3000 năm cách ngày nay

+ Phát hiện năm: 1961 tại xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ

+ Địa bàn phân bố: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội

+ Di vật tiêu biểu: Đồ trang sức, rìu tứ giác, khuân đúc đồng, chì lưới (đá), rìu lưỡi xéo, đục, lao, lưỡi câu (đồng), đồ gốm có màu xám đen và đỏ nhạt?

Văn hóa Đông Sơn

+ Thời gian: 2.500 – 2000 năm cách ngày nay

+ Phát hiện năm: 1924 tại Thanh Hóa

+ Địa bàn phân bố: Rộng từ biên giới phía Bắc cho tới Đèo Ngang (Quảng Bình), nhưng tập trung chủ yếu ở lưu vực ba con sông lớn là sông Hồng, sông Mã và sông Cả.

+ Di vật tiêu biểu:

. Công cụ lao động sản xuất: Lưỡi cày, lưỡi cuốc, mai, thuổng, rìu, lưỡi câu,

. Đồ dùng sinh hoạt: Thạp, thố, chum, chậu, khay, đĩa, chậu, âu, muôi,

. Vũ khí: Mũi lao, mũi giáo, hộ tâm phiến, dao găm,

. Đồ trang sức: Vòng, khuyên tai, chuỗi hạt, trâm, khóa thắt lưng, gương,

. Đồ tùy táng: Trống, thạp, thố minh khí, muôi

. Đồ gốm: Chum, bình, hũ, nồi, bát, chân đèn,

Văn hóa Sa Huỳnh

+ Thời gian: 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay

+ Phát hiện năm: 1906 tại Sa Huỳnh, Quảng Ngãi

+ Địa bàn phân bố: Dọc các tỉnh miền Trung và Nam Trung Bộ từ Quảng Bình đến Đồng Nai và một số đảo như Lý Sơn, Côn Đảo, Thổ Chu.

+ Di vật tiêu biểu: Chum, nồi, bình, bát, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu, chuỗi hạt.

Văn hóa Óc Eo

+ Thời gian: 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay

+ Phát hiện năm: 1942 tại gò Óc Eo (An Giang)

+ Địa bàn phân bố: Khắp vùng đồng bằng Nam Bộ

+ Di vật tiêu biểu: Mảnh gốm, chum, vò, hũ, bình, một số đồ trang sức.

* Văn hóa Đông Sơn là cơ sở để hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc ở miền Bắc, văn hóa Sa Huỳnh là cơ sở để hình thành nhà nước Lâm Ấp – Chăm Pa ở miền Trung và văn hóa Óc Eo là cơ sở hình thành của nhà nước Phù Nam ở miền Nam.

3. Mười thế kỷ đầu công nguyên (Thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc)

  • Bắc thuộc lần thứ nhất (207 TCN – 39)
  • Bắc thuộc lần thứ 2 (43 – 542)
  • Bắc thuộc lần thứ 3 (603 – 939)
  • Các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc

+ Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 – 43)

+ Khởi nghĩa Bà Triệu (248)

+ Khởi nghĩa Lý Bí (542)

+ Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722)

+ Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ (905)

+ Chiến thắng Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng (938)

4. Thời kỳ phong kiến Việt Nam

– Nhà Ngô (938 – 965), kinh đô Cổ Loa, Đông Anh (Hà Nội)
– Nhà Đinh (968 – 980), quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình)
– Nhà Tiền Lê (980 – 1009), quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình)
– Nhà Lý (1009 – 1225), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long (Hà Nội)
– Nhà Trần (1225 – 1400), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long (Hà Nội)
– Nhà Hồ (1400 – 1407), quốc hiệu Đại Ngu, kinh đô Tây Đô (Thanh Hóa)
– Nhà Lê sơ (1428 – 1527), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Kinh, Thăng Long, Hà Nội
– Nhà Mạc (1527 – 1592), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Kinh (Hà Nội)
– Lê Trung Hưng (1533 – 1789), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long (Hà Nội)
– Tây Sơn (1776 – 1802), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Phú Xuân (Huế)
– Nhà Nguyễn (1802 – 1945), quốc hiệu Đại Nam, kinh đô Phú Xuân (Huế)

5.Thời cận đại

– Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858 – 1884)
– Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945)

6. Thời hiện đại 
– Kháng chiến chống Pháp (1945 -1954)
– Kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)
– Xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 đến nay)