Tag Archive | văn hóa Đông Sơn

Văn hóa Sa Huỳnh nhìn từ văn hóa Đồng Nai

Hai nền văn hóa Sa Huỳnh và Đồng Nai đều có niên đại khỏang 3500 đến 2000 năm cách ngày nay. Cùng với văn hóa Đông Sơn, ba nền văn hóa này đã trở thành 3 trung tâm văn hóa thời Kim khí trên đất nước ta, vừa có những nét chung nhưng đồng thời cũng có những đặc trưng khác biệt, làm nên sự đa dạng của những khu vực văn hóa tộc người trong bối cảnh Đông Nam Á thời cổ.

Bát gốm – Văn hóa Sa Huỳnh

Từ những nghiên cứu về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai giai đoạn sơ kỳ sắt, bài viết nhìn lại sự tương đồng và khác biệt cơ bản nhất về các di tích mộ chum của hai nền văn hóa này, góp phần làm rõ hơn sự phong phú đa dạng của các nền văn hóa tiền – sơ sử Việt Nam.

Bài viết gồm 2 phần:

– Khái quát về văn hóa Đồng Nai và văn hóa Sa Huỳnh

– Mộ chum trong văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai: những tương đồng và khác biệt.

1. Khái quát về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai

1.1  Văn hóa Sa Huỳnh phân bố ở khu vực miền Trung

phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 3500 năm đến những thế kỷ trước sau Công nguyên. Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của mộ huyệt đất. Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng trưng”.

Mộ chum – văn hóa Sa Huỳnh

Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình: công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức… Đặc trưng về di vật là sự phổ biến của công cụ lao động và vũ khí bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch, đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú… Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn).

Đồ gốm – văn hóa Sa Huỳnh

Có thể nhận biết trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh là khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi. Khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận những di tích và di vật thời tiền – sơ sử mới được phát hiện và nghiên cứu từ sau năm 1975. Cho đến nay số lượng di tích và di vật ở khu vực này chưa nhiều lắm song đã thể hiện tính chất và diện mạo của “văn hóa Sa Huỳnh” có phần khác biệt so với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Chămpa. Văn hóa khảo cổ ở đây có những nét độc lập nhất định so với vùng trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh. Ngay từ giai đoạn đồ đồng ở  khu vực Khánh Hòa đã phân lập được một văn hóa khảo cổ là “văn hóa Xóm Cồn”. Đến giai đoạn muộn sơ kỳ thời đại Đồ Sắt, ở một số di tích mộ vò ở Nam Trung bộ như Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ, Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò Sa Huỳnh điển hình và thậm chí còn có những yếu tố gần gũi với văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam bộ như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt và than tro hiện hữu trong chum, vò táng…

Như vậy, văn hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là “Sa Huỳnh cổ điển” vào sơ kỳ đồ sắt cần được hiểu là kết quả hội tụ sự phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn thuộc thời Đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 trước công nguyên). Ngoài ra những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây cũng góp phần chứng minh cho sự phát triển “văn hóa đa tuyến” ở khu vực miền Trung: văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk, Đăk Nông… đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có “yếu tố Sa Huỳnh” trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ tùy táng chôn theo. Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng, vừa độc lập với nhau vừa có mối giao lưu, cùng tham gia vào quá trình đưa văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ Đồ Sắt (khoảng 500 năm trước Công nguyên đến đầu công nguyên).

Đây cũng là hiện tượng và quy luật chung của các văn hóa thời đại kim khí như văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc với các tuyến phát triển ở lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, văn hóa Đồng Nai với các tiểu vùng phù sa cổ Đồng Nai, lưu vực Vàm Cỏ và vùng ngập mặn ven biển Đông Nam Bộ.

1.2.Văn hóa Đồng Nai phân bố ở miền Đông Nam bộ

địa giới hành chánh ngày nay là các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương. Đồng Nai, TP.Hồ Chí` Minh, Bà Rịa- Vũng Tàu. Về mặt địa lý-địa hình đây là vùng đất cao trải dài từ cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh thấp dần xuống đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Vì vậy phạm vi phân bố của văn hóa Đồng Nai thời tiền sử bao gồm lưu vực các con sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ đông-tây. Trên một địa bàn rộng lớn đó các di tích khảo cổ văn hóa Đồng Nai tập trung trong 3 khu vực địa hình:

– Khu vực đồi đất đỏ bazan và cao nguyên đất xám phù sa cũ: Các di tích ở đây có diện phân bố rộng, tích tụ văn hóa dày, hiện vật vô cùng phong phú chủ yếu là đồ gốm và công cụ đá. Tiêu biểu là cụm di tích Xuân Lộc – Đồng Nai, di tích thành tròn ở Lộc Ninh – Bình Phước.

– Khu vực phù sa cổ hạ lưu sông Đồng Nai: nhiều di tích phân bố dày đặc như nơi cư trú, nơi chế tạo các loại công cụ và đồ dùng sinh hoạt, các khu mộ táng với nhiều táng thức khác nhau… Các di tích nổi tiếng ở đây là Cù Lao Rùa, Dốc Chùa, Bưng Sình (Bình Dương), Bình Đa, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me…(Đồng Nai), An Sơn, Rạch Núi, Lộc Giang…(Long An).

– Khu vực ven biển Đông Nam bộ: đây là vùng đất thấp trũng ngập mặn, chịu ảnh hưởng thường xuyên của chế độ bán nhật triều, phần lớn diện tích là rừng sác. Di tích cư trú và mộ táng rải rác trên các gò, giồng đất cao hoặc ven các bưng lầy, di vật ở đây rất đa dạng và độc đáo thể hiện những mối quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi. Độc đáo nhất là hệ thống di tích ở huyện Cần Giờ – TP.HCM trong đó có di tích mộ chum Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ, các di tích vùng bưng lầy Bà Rịa-Vũng Tàu như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn, Cái Lăng, Giồng Nổi, Gò Me, Giồng Lớn…

Những cuộc khai quật khảo cổ học từ sau năm 1975 đã đưa lên từ lòng đất hàng trăm ngàn di vật với nhiều chất liệu khác nhau. Đồ đá là di vật phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất, đồng thời cũng là loại công cụ, vũ khí tồn tại lâu dài đến cả giai đoạn về sau, do sự khan hiếm của quặng kim loại. Loại hình công cụ phổ biến là rìu, cuốc, dao hái, “Qua đá”, đục, mũi tên, … được chuyên môn hóa về chức năng. Đồ trang sức nhiều nhất là các loại vòng đeo tay, đeo tai. Đặc sắc nhất vẫn là những bộ đàn đá được tìm thấy trong địa tầng di tích khảo cổ học ở Đồng Nai, Bình Phước đã khẳng dịnh sự ra đời và tồn tại của loại nhạc cụ cổ truyền  này ở lưu vực Đồng Nai từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay.

Di vật kim lọai phổ biến gồm đồ đồng chế tạo bằng phương pháp đúc trong khuôn hai mang “liên hoàn”: Rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu, lao có ngạnh… Tại di tích Long Giao (Đồng Nai) còn tìm thấy một kho “qua đồng”- một loại vũ khí  cổ phổ biến cả trong văn hóa Đông Sơn. Gần đây còn tìm thấy một số trống đồng “kiểu Đông Sơn” được sử dụng làm nắp đậy những ngôi mộ chum bằng gỗ ở di tích Bưng Sình- Phú Chánh (Bình Dương). Đồ sắt không nhiều chủ yếu là vũ khí như giáo, lao… thường tìm thấy trong mộ táng.

Đồ gốm và nghề làm gốm rất phát triển, các loại đồ dùng trong sinh hoạt như nồi, bát đĩa chân cao, bình, bếp lò… có mặt trong tất cả các di tích khảo cổ. Ngoài ra còn có nhiều dụng cụ bằng gốm như bàn xoa, dọi se sợi, chì lưới… Ngoài các chất liệu chủ yếu trên trong văn hóa Đồng Nai còn tìm thấy những di vật bằng gỗ, xương, sừng hay mai rùa… làm công cụ và đồ trang sức.

Giai đoạn muộn của văn hóa Đồng Nai xuất hiện những di tích mộ táng với táng thức chủ đạo là “mộ chum”: di cốt được chôn  nguyên vẹn hoặc than tro hỏa táng trong những chum, vò lớn bằng gốm hay bằng gỗ, cùng nhiều đồ tuỳ táng có giá trị như trang sức đá ngọc, mã não, thủy tinh, giáo sắt, đồ gốm minh khí… nổi bật là bộ sưu tập 32 “khuyên tai hai đầu thú” tại di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ, số lượng nhiều nhất được tìm thấy trong các “văn hóa mộ chum” ở Việt nam và Đông Nam Á.

Phương thức kinh tế chính của cư dân cổ Đồng Nai  là nông nghiệp ruộng khô (nương rẫy dùng cuốc) kết hợp với khai thác tự nhiên như đánh bắt cá, hái lượm… đồng thời phát triển các nghề thủ công. Tuy nhiên, tại vùng cửa sông Đồng Nai đã xuất hiện những dấu tích của một nhóm cư dân đặc biệt sinh sống bằng nghề trao đổi buôn bán, đó là chủ nhân các di tích mộ chum ở Cần Giờ-TP.HCM. Trong khoảng 2500-2000 năm cách ngày nay Cần Giờ đã từng là một “cảng thị sơ khai” phát triển thương mại qua đường sông, đường biển với nhiều nơi như với khu vực văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, các đảo ở Philippine, Indonesia, đặc biệt quan hệ kinh tế-kỹ thuật với Ấn Độ đã thể hiện rõ nét từ rất sớm.

Trong thời đại kim khí lưu vực Đồng Nai là một trung tâm nông nghiệp sầm uất, nơi quy tụ lượng tài vật khá lớn của cả phần nam bán đảo Đông dương. Hàng chục di tích khảo cổ học phân bố dày đặc dọc đôi bờ Đồng Nai, trên cả những cù lao và kéo dài đến vùng ven biển. Dấu tích cư trú lâu dài, ổn định và phong phú của con người thể hiện trên số lượng di vật rất lớn, nhiều loại hình và phản ánh được các đặc trưng văn hoá, đặc trưng kỹ thuật của các cộng đồng người ở đây. Những xưởng thủ công lớn sản xuất nhiều loại vật dụng cho cuộc sống của con người như đồ gốm, công cụ đá, khuôn đúc và công cụ kim loại, đồ trang sức bằng đá mà số lượng sản phẩm đã vượt qua mức độ tự cung tự cấp. Miệt Vàm Cỏ cư dân cổ cũng tạo lập cuộc sống định cư trên những “núi đất” giữa vùng lầy trũng, tại đó  phong phú công cụ sản xuất bằng đá, đồ dùng bằng gốm, đặc biệt nhiều loại công cụ xương thú và vỏ nhuyễn thể. Dù mối quan hệ giao lưu giữa Vàm Cỏ và Đồng Nai phát triển trên quy mô lớn và đã rất thường xuyên, nhưng cư dân Vàm Cỏ vẫn có lối sống và sản phẩm văn hoá mang bản sắc riêng. Văn hóa Đồng Nai phát triển trong thiên niên kỷ I-II trước Công Nguyên đã được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Truyền thống văn hóa Đồng Nai cùng với một số yếu tố văn hóa “ngoại sinh” do cư dân cổ Đồng Nai tiếp thu đã trở thành những yếu tố quan trọng để hình thành nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử kế tiếp– thế kỷ I-VII sau Công nguyên.

2. Di tích mộ chum trong văn hóa Đồng Nai, những tương đồng và khác biệt so với văn hóa Sa Huỳnh.

Những đối sánh sau đây trên cơ sở tìm hiểu giai đọan phát triển cao nhất của hai văn hóa này, giai đọan sơ kỳ đồ sắt từ nửa sau thiên niên kỷ I trước CN đến đầu CN. Tiêu biểu là nhóm mộ chum ở Cần Giờ – TPHCM.

2.1 Cần Giờ nằm ở phía Đông Nam và là cửa ngõ đi ra biển Đông của TP Hồ Chí Minh

là một phần của miền Đông Nam Bộ thành tạo do dòng chảy của sông Cửu Long cổ. Với diện tích khoảng gần 700 km2 được bao bọc bốn phía bởi sông và biển ( phía Bắc là sông Nhà Bè và sông Lòng Tàu, phía Đông là sông Đồng Tranh và sông Thị Vải, phía Tây là sông Soài Rạp và phía Nam là biển Đông). Trên vùng đất sình lầy ven biển này đã có một thảm thực vật kiểu rừng nước mặn phát triển phong phú – nổi danh với địa danh Rừng Sác. Từ đầu nguồn chảy xuống, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn hợp lưu ở Nhà Bè rồi lại tách ra làm hai đổ xuôi ra biển: từ đây, sông Sài Gòn được gọi là sông Lòng Tàu đổ ra biển bằng cửa chính là cửa Cần Giờ ở vịnh Rành Gái; sông Đồng Nai được gọi là sông Soài Rạp, hợp lưu với sông Vàm Cỏ ( Đông – Tây)  đổ ra biển bằng cửa Soài Rạp ở vịnh Đông Tranh. Cả hai sông Sài Gòn và Đồng Nai đều có một hệ thống chi lưu, phụ lưu và các con sông rạch nhỏ, Khí hậu ở khu vực Cần Giờ vô cùng khắc nghiệt. Mùa khô kéo dài và mùa mưa đến chậm , lượng mưa cũng ít hơn những nơi khác ở miền Đông Nam Bộ.

Phân bố trên vùng đất ven biển có địa hình hết sức phức tạp này, nhóm mộ chum Cần Giờ gồm 2 di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ có những đặc trưng cơ bản sau:

– Là một nhóm di tích cư trú và mộ chum phân bố trên những giồng đất đỏ hoặc đất nâu đen. Mộ chum phân bố dày đặc không có qui luật ngay trên tầng văn hóa của di chỉ cư trú. Bên cạnh số lượng mộ chum lớn còn có cả mộ đất. Loại hình chum mai táng tuyệt đại đa số là hình cầu đáy tròn, miệng hơi khum được mài khá nhẵn. Chum được đặt đứng trên một lớp đất gia cố đặc biệt, hoàn toàn không có nắp đậy. Trong chum di cốt còn khá nguyên vẹn thể hiện tục hung táng (Primary burial) Truyền thống mộ táng ở Cần Giờ có sự chuyển biến về táng thức: Mộ huyệt đất sét – mộ chum gốm đặt trong huyệt đất sét – mộ chum gốm – mộ huyệt đất. Có thể nhận biết truyền thống này qua các di tích Khu Bao Đồng – Giồng Cá Vồ – Giồng Phệt. (Đặng Văn Thắng…, 2006).

– Tầng văn hóa gồm mộ táng và một hệ gốm di chỉ có lọai hình và kỹ thuật sản xuất riêng biệt “gốm Cần Giờ”. Đây là lọai gốm do cư dân cổ Cần Giờ sản xuất, nguyên liệu tại chỗ, lọai hình riêng biệt, kỹ thuật đặc thù, diễn biến liên tục qua các di tích KCH ở đây từ khỏang 3000 năm đến khỏang 1500 năm cách nay. Lọai hình đặc trưng là bình thân cầu miệng khum có rãnh, bình đáy hình trứng cổ thắt miệng loe vành miệng gập vào trong có rãnh, bình đáy chỏm cầu cổ thắt vành miệng vê tròn. Hoa văn in đập xương cá thô “lá dừa nước” hay ô vuông, ô trám. Kỹ thuật nặn tay, gắn chắp. Xương gốm pha cát khá mịn, độ nung cao. Đáng chú ý là các lọai chum gốm mai táng cũng cùng chất liệu và kỹ thuật sản xuất.

– Hiện vật trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa có cùng loại hình và chất liệu, thể hiện mối giao lưu vô cùng rộng rãi và mật thiết với nhiều vùng khác nhau, như văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai, văn hóa Óc Eo và của cả những vùng xa hơn như Thái Lan, Campuchia và nhất là Philippin.

– Nhóm di tích này có khung niên đại khoảng từ 3000 năm đến 2000 năm cách ngày nay, niên đại C14 của lớp mộ táng Giồng Cá Vồ 2480 ± 50 năm cách ngày nay và Giồng Phệt là 2100 +/-  50 năm,  tương đương giai đoạn Hậu kỳ của Văn hóa Sa Huỳnh.

Từ những đặc trưng này đã có ý kiến kiên trì phân lập nhóm di tích này thành một văn hóa mới: “Văn hóa Giồng Phệt” (Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn Thắng, 1995, 2006)

2.2 Nếu coi đặc trưng đầu tiên của Văn hóa Sa Huỳnh

là “trừ mộ huyệt đất ở địa điểm Bình Châu, tất cả các di tích mộ táng Văn Hóa Sa Huỳnh từ giai đoạn Sơ kỳ đến gia đoạn Hậu kỳ đều được mai táng bằng những chum gốm lớn” thì một số một đất, nằm ở vùng địa tầng và có cùng loại đáy tròn và chum có vai gãy đáy bằng của Văn hóa Giồng Phệt khá khác biệt 3 loại chum hình trụ hay hình ống, hình trứng và hình cầu dùng mai táng trong Văn hóa Sa Huỳnh. Mộ chum ở Sa Huỳnh thường không tìm thấy xương răng người chết, nên có thể đó là những chum dùng để cải táng ( secondary buribal). Trong khi đó tuyệt đại đa số mộ chum ở Cần Giờ còn di cốt người như: sọ, răng, sương ống, xương chi.. trong nhiều mộ, di cốt còn khá nguyên vẹn cho thấy cư dân cổ nơi đây đã chôn nguyên thi thể người chết trong chum bằng cách bó ngồi (Nguyễn Lân Cường, 1995). Tục cải táng hay chôn ở mộ đất chỉ là những ngoại lệ. Với số lượng mộ chum nhiều đến kinh ngạc ( di tích Giồng Cá Vồ tìm thấy 339 mộ/225 m2 ), với sự đồng nhất của loại hình chum mai táng và sự thống nhất trong táng tục, ta thấy cư dân ở đây đã có một tập tục hung táng lâu dài, ổn định và độc đáo. Đây là yếu tố đầu tiên giúp ta phân biệt “Văn hóa Giồng Phệt” với những văn hóa khác có cùng tục mai táng bằng chum gốm.

Di tích chum mộ tại Giồng Cà Vồ

Đồ gốm tùy táng ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ dễ dàng nhận thấy những yếu tố của gốm Sa Hùynh về lọai hình và hoa văn: các loại nồi gãy góc ở thân, bình Sa Huỳnh, bát đĩa chân cao…, với số lượng không nhiều. Các hiện vật kiểu Sa Huỳnh ấy được tìm thấy trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa. Thủ pháp trang trí gốm các của cư dân Sa Huỳnh là khắc vạch kết hợp in mép sò và tô màu ( chủ yếu là tô đen ánh chì) cũng chính là thủ pháp trang trí gốm của chủ nhân nhóm mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt. Hoa văn gốm uốn lượn mềm mại kết hợp với in mép sò, ấn chân chim vào một số họa tiết đệm khác như tam giác, những vạch chéo…tạo nên những đồ án chữ S kép nối nhau chạy ngang thanh gốm với những vạch xiên chéo kiểu “sóng biển, mưa rào”, hay những chữ S gấp khúc nằm xiên móc vào nhau có tam giác đệm… Dù là đồ án nào thì nét khắc vạch cũng rất phóng khoáng, nhịp nhàng, nhiều biến thể, nhưng không chặt chẽ, cân đối như hoa văn gốm Sa Huỳnh. Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ở đồ gốm “kiểu Sa Huỳnh” ở đây hoàn toàn vắng mặt thủ pháp tô đen ánh chì, mà chỉ có một số tiêu bản được tô thổ hoàng.

Ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã tìm thấy 32 khuyên tai hai đầu thú (Giồng Phệt 5 chiếc bằng đá ngọc và Giồng Cá Vồ 27 chiếc, trong đó có 19 chiếc bằng đá và 8 chiếc bằng thủy tinh (Nguyễn Thị Hậu 2006). Đặc biệt, ở Giồng Cá Vồ còn tìm thấy một chiếc khuyên tai hai đầu thú bằng đá hình chiếc khánh, đây là tiêu bản độc đáo nhất của loại hình này và cho đến nay là tiêu bản duy nhất đã tìm thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á. Tại Giồng Cá Vồ, đã tìm thấy 4 cặp khuyên tai 2 đầu thú bằng đá giống nhau trong mộ chum. Quan trọng hơn, trong mộ chum di cốt còn khá nhiều hộp sọ còn nguyên với 2 hàm đầy đủ có một khuyên tai hai đầu thú bằng đá màu xanh nằm áp sát vào tay trái rất ngay ngắn. Móc đeo và hai cặp sừng quay lên trên, hai miệng ở phía dưới đúng tư thế và vị trí của một khuyên tai. Như vậy, việc phát hiện những khuyên tai hai đầu thú ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã cung cấp thêm những tư liệu để xác định chức năng của nó. Chủ nhân văn hóa Giồng Phệt đã sử dụng đồ trang sức này ở cả nam và nữ, đeo ở một hay cả hai bên tai, cả chủ nhân mộ chum và mộ đất. Cùng tượng hình “hai đầu thú”, ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ còn tìm thấy nhiều tượng hình chim bằng đất nung có 2 hoặc 3,4 đầu. Những tượng hình chim này được gắn lên đỉnh mộ hình tháp bằng đất nung có 4 mặt, hoặc đơn giản hơn, gắn trên một đoạn gốm hình trụ có chân đế choãi cao. Loại hình đồ gốm độc đáo này tìm thấy trong cả mộ táng và trong tầng văn hóa. Rõ ràng hình tượng hai ( hay nhiều) đầu chim, đầu thú thể hiện trên đồ trang sức và đồ gốm ở đây có mối quan hệ với nhau, theo chúng tôi, chúng đều là biểu tượng của một hình thái tôn giáo – tín ngưỡng, có thể coi loại hình hiện vật có hình tượng đầu chim, đầu thú là một đặc trưng văn hóa của văn hóa Giồng Phệt (Nguyễn Thị Hậu, 1997).

Ngoài khuyên tai 2 đầu thú ở đây còn phổ biến một số loại hình trang sức quen thuộc của văn hóa Sa Huỳnh như: khuyên tai 3 mấu, hạt chuỗi mã não có số lượng nhiều nhất với nhiều hình dáng và kích cỡ. Đồ trang sức thủy tinh: Ngoài khuyên tai 2 đầu thú và khuyên tai 3 mấu, còn có rất nhiều loại hạt chuỗi và vòng đeo. Có thể nói đồ trang sức của Giồng Cá Vồ và Giồng Phệt đã thể hiện khả năng “hội tụ” những yếu tố đặc trưng của nhiều nền văn hóa trong Sơ kỳ Thời đại sắt ở Đông Nam Á và vùng xa hơn, trong đó ảnh hưởng của Văn hóa Sa Huỳnh là khá đậm nét.

Trong Văn hóa Sa Huỳnh công cụ bằng sắt khá phong phú như rìu, cuốc, thuổng, dao, liềm. Nhưng trong Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt lại phổ biến các loại vũ khí như giáo, kiếm, lao kích thước khá lớn, thường được bẻ cong hoặc gấp đôi để đặt vào mộ chum. Chủ nhân của những mộ chum này chắc chắn là người có địa vị cao trong xã hội; công cụ sản xuất nông nghiệp rất ít, chỉ là sự “góp mặt” bên cạnh số lượng lớn các loại dao dùng trong sinh hoạt và nhiều loại lưỡi câu để đánh bắt hải sản. Một số hiện vật sắt được bọc nhiều lớp vải. Một số hiện vật sắt được bọc nhiều lớp vải ( có loại vải thô nhưng cũng có loại khá mịn) cho thấy giá trị cao của chúng. Công cụ vũ khí bằng sắt ngoài chất năng thông dụng còn là biểu tượng cho quyền lực của chủ nhân chúng trong một xã hội đã có sự phân hóa khá sâu sắc. Yếu tố của nông nghiệp trồng trọt khá mờ nhạt trong văn hóa Giồng Phệt; cảnh quan môi trường sinh thái ở đây đã không cho phép cư dân sống bằng nghề nông chứ chưa nói đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp! Chỉ có nghề khai thác biển là khá phát triển.

Như vậy, những yếu tố của Văn hóa Sa Huỳnh trong “văn hóa Giồng Phệt” khá rõ nét trên đồ gốm tùy táng và đồ trang sức, là những loại hình hiện vật thể hiện tư duy thẩm mỹ và đời sống tâm linh của cư dân cổ. Chính vì vậy, đồ gốm và đồ trang sức thường xuyên được trao đổi giao lưu về cả sản phẩm và kỹ thuật. Như trên đã nói, đã tìm thấy những bằng chứng chế tạo đồ trang sức tại Giồng Cá Vồ, và kỹ thuật nặn tay, gắn chắp làm gốm di chỉ cũng sử dụng trong làm đồ gốm tùy táng (các tượng gốm, chân đế…). Khu vực Cần Giờ thể hiện hiện rõ sự tiếp nhận kỹ thuật từ những vùng xung quanh và phát triển thành một đặc trưng riêng biệt.

2.3 Di tích mộ chum Hòa Diêm

(xã Cam Thịnh, thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) và nhóm di tích mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ, TP.HCM)

Qua diễn biến tầng văn hóa, đối sánh với các di tích trong khu vực và xa hơn, bước đầu những người khai quật cho rằng niên đại di tích Hòa Diêm có thể kéo dài trong khoảng thế kỷ 1-2 TCN đến thế kỷ 2-3 sau CN, trong đó lớp sớm có quan hệ chặt chẽ với văn hóa Xóm Cồn – văn hóa sơ kỳ kim khí ở Khánh Hòa, lớp văn hóa muộn có quan hệ với giai đoạn sớm của văn hóa Chăm, còn giai đoạn Hòa Diêm tương đương với văn hóa Sa Huỳnh cổ điển ở ven biển miền Trung Việt Nam. Ngoài ra di tích Hòa Diêm còn có mối quan hệ rộng hơn với các di tích liền kề cũng như một số văn hóa cùng thời ở khu vực phía Nam. Con đường phát triển và quan hệ văn hóa của di tích Hòa Diêm đã góp phần tạo nên một khu vực văn hóa tiền sử mang những đặc điểm riêng ở Nam Trung bộ.

Tầng văn hóa di tích Hòa Diêm còn khá nguyên vẹn và chứa nhiều hiện vật đồ đá, gốm, vỏ nhuyễn thể, kim loại… Sự diễn biến từ sớm đến muộn với các giai đoạn văn hóa khác nhau, kể cả địa tầng gốm và cả địa tầng mộ táng cho biết tính chất của di tích là nơi cư trú đồng thời là khu mộ táng có nhiều táng thức như hung táng, cải táng, mộ đất, mộ chum/ vò gốm, mộ tượng trưng. Đặc trưng nổi bật của di tích Hòa Diêm là mộ chum: mật độ phân bố dày đặc, chum hình cầu có một chum khác đậy lên trên, chum dưới ghè rộng miệng để dễ sắp xếp di cốt và hiện vật. Do cải táng và hỏa táng rồi cho xương vào chum nên di cốt trong chum không theo quy luật nào cả, có mộ có tới 3 cá thể, nhiều mộ có 2 cá thể, mộ số 1 có 1 cá thể và nhiều mộ chỉ có vài mẩu xương vụn, thậm chí có mộ không còn di cốt. Trong các mộ chum có di cốt người lớn và cả trẻ em. Phần di cốt được bảo quản cẩn thận nhất là sọ, thường có mảnh gốm lớn kê ở dưới. Nhiều mộ chum có hiện tượng nắp vỡ sụp xuống lòng chum, vị trí một số đồ gốm tùy táng có chức năng như kê, che cho di cốt quan trọng như sọ, hàm (Nguyễn Công Bằng, 2005).

Qua những nét tổng quan về di tích, mộ táng và đồ tùy táng của di tích Hòa Diêm, có thể thấy rằng, nếu chỉ nhìn Hòa Diêm từ một chiều “theo quán tính” là cứ di tích nào có mộ chum thì thuộc văn hóa Sa Huỳnh thì ta buộc phải nhận thấy “mộ vò Hòa Diêm còn chứa đựng biết bao nhiêu điều khó hiểu”. Hình dáng vò táng, táng thức, nhiều loại hình gốm và cách tạo hoa văn… “tất cả những cách đó đều không thấy ở Sa Huỳnh, không chắc là Champa, mà cũng không phải là ai cả ở gần đây hơn”. Và, “nói Hòa Diêm sau Xóm Cồn thì không có nghĩa là Hòa Diêm lại đến gần Sa Huỳnh hơn. Ngược lại, nó cũng xa Sa Huỳnh cũng như Xóm Cồn vậy” (Lương Ninh, 2001).

Như vậy, mộ táng trong di tích Hòa Diêm đã thể hiện những đặc trưng gần với Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt thuộc khu vực văn hóa Đồng Nai hơn là văn hóa Sa Huỳnh. Ngoài ra, các mộ đất có hiện tượng rải, phủ gốm, loại hình rìu đồng tùy táng, đá cuội trong mộ chum và mộ đất ở Hòa Diêm đều là những hiện tượng đã gặp và khá phổ biến trong văn hóa Đồng Nai. Tất nhiên không thể vì vậy mà mở rộng phạm vi của “văn hóa Giồng Phệt” hay văn hóa Đồng Nai đến Nam Trung bộ – một vùng cảnh quan/ sinh thái tương đối khác biệt. Với những bằng chứng trên, Khánh Hòa – rộng hơn là khu vực Nam Trung bộ với nhóm di tích Bàu Hòe – Hòn Đỏ – Mỹ Tường ở Bình Thuận mà các mộ vò ở đây “với phong cách mai táng, hình dáng và kích thước gần gũi với cụm di tích Suối Chồn – Đồng Nai và khác lạ với cụm vò lớn hình trụ hay hình trứng điển hình của văn hóa Sa Huỳnh”, đã thể hiện rõ tính chất vùng giao thoa/ vùng đệm của hai trung tâm văn hóa thời đại kim khí trong thời gian so kỳ đồ sắt sôi động giai lưu văn hóa qua buôn bán và các luồng di dân ven biển ĐNA (Phạm Đức Mạnh,… 1984). Nếu không đặt các di tích mộ chum ở niềm Nam Việt Nam trong bối cảnh đó thì rất khó xác định nội dung văn hóa của từng khu vực cũng như tìm ra bản chất của các mối quan hệ, liên hệ giữa chúng.

Là một trong những văn hóa tiền sử được phát hiện và nghiên cứu sớm nhất ở VN và ĐNA, văn hóa Sa Huỳnh có vị trí quan trọng trong việc định vị và đối sánh các văn hóa cùng thời, nhất là những văn hóa ven biển và hải đảo có mối quan hệ giao lưu mật thiết với nó. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa cùng thời, cùng trình độ phát triển, địa  bàn kề cận nhau là hiện tượng văn hóa mang tính quy luật. Ở khu vực giáp ranh Nam Trung bộ tùy từng giai đọan mà văn hóa ở đây sẽ ảnh hưởng đậm nét các yếu tố văn hóa Sa Huỳnh hay văn hóa Đồng Nai.

Những đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh ngày nay đã tìm thấy trong nhiều nền văn hóa ở những địa hình môi trường khác nhau. Điều này càng cho thấy rõ hơn mối quan hệ qua biển, bằng biển của cư dân cổ Đông Nam Á: yếu tố văn hóa Biển mang lại những nét tương đồng còn yếu tố lục địa làm nên nét khác biệt cho các nền văn hóa cổ, Biển Đông từ thời xa xưa cho đến nay luôn có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của khu vực Đông Nam Á. Đây cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh đến văn hóa Chămpa và từ văn hóa Đồng Nai đến văn hóa Óc Eo./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

NGUYỄN CÔNG BẰNG, 2005. Di tích Hòa Diêm – Khánh Hòa nhìn từ văn hóa Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học số 4/2005. Tr 48 – 54.

NGUYỄN LÂN CƯỜNG, 1995. Nghiên cứu các di cốt người cổ tại Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ – TPHCM). Tạp chí KCH số 2/1995.

NGUYỂN THỊ HẬU  1997.Khuyên tai hai đầu thú trong các di tích mộ chum Cần Giờ (TPHCM) . Tạp chí VHNT số 8/1997 trang 23 – 26.

NGUYỄN THỊ HẬU, 2006. Di tích KCH ở Cần Giờ – TPHCM, những tư liệu mới. NPHVKCH 2006

NGUYỄN THỊ HẬU , ĐẶNG VĂN THẮNG 1995. Về những yếu tố Sa Huỳnh trong văn hóa Giồng Phệt. Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An – Kỷ yếu HTKH, Hội An 2004. Tr.262 – 281.

LƯƠNG NINH, 2001. Xóm Cồn – Hòa Diêm – Sa Huỳnh. Tạp chí Khảo cổ học số 2/ 2001. Tr 72 – 80.

PHẠM ĐỨC MẠNH, BÙI CHÍ HÒANG. 1984. Cụm di tích mộ vò miền đông Nam bộ. Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ĐBSCL, Long Xuyên 1984, trang 128- 131.

VŨ CÔNG QÚY, 1995. Văn hóa Sa Huỳnh trong thời đại kim khí Việt Nam. Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An – Kỷ yếu HTKH, Hội An 2004. Tr 283 – 296.

ĐẶNG VĂN THẮNG, NGUYỄN THỊ HẬU, 2006. Khai quật di tích Khu Bao Đồng (Cần Giờ – TPHCM). Tạp chí KCH số 5/2006, tr. 38 – 49.

Nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-co-trung-dai-o-viet-nam/1694-nguyen-thi-hau-van-hoa-sa-huynh-nhin-tu-van-hoa-dong-nai.html

Di chỉ khảo cổ học Thần Sa (Thái Nguyên)


1. Tên di tích: Khu di tích khảo cổ học Thần Sa
2. Loại công trình: Khu vực khảo cổ
3. Loại di tích: Di tích khảo cổ học
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia: theo quyết định số 147/VH-QĐ ngày 24 tháng 12 năm 1982
5. Địa chỉ di tích: Xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
6. Tóm lược về thông tin di tích:
Khu di tích Thần Sa nằm gọn trong địa phận xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 25 km theo đường chim bay về phía Bắc. Những dãy núi đá vôi dày đặc thuộc phần cuối của sơn hệ Bắc Sơn và những dải thung lũng hẹp dọc theo đôi bờ sông Thần Sa là nét đặc trưng của địa hình Thần Sa. Chính trong các hang động ở Thần Sa, vào những năm 70 – 80 của thế kỉ XX các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được một loạt các di chỉ khảo cổ có niên đại từ trung kì đá cũ đến sơ kì thời đại đồ đá mới (30.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay) như: Phiêng Tung, Ngườm, Nà Ngùn, Thắm Choong, Hạ Sơn1, Hạ Sơn 2,…

Từ La Hiên (cây số 22 – Quốc lộ 1B Thái Nguyên – Lạng Sơn) đi thẳng đến trung tâm xã Thần Sa, sau đó xuyên qua bản Trung Sơn của người Tày, đi dọc sông Thần Sa, chỉ khoảng 1km là tới chân núi Mèo. Hang Phiêng Tung nằm giữa núi Mèo, ở độ cao khoảng 50m so với chân núi. Phiêng Tung nghĩa tiếng Tày là cao và bằng phẳng. Do từ bản Trung Sơn nhìn lên thấy cửa hang giống như miệng con Hổ đang há ra nên dân trong vùng gọi là hang Miệng Hổ. Hang rộng và thoáng, có hai tầng. Tầng trên nhỏ, không có tầng văn hoá. Tầng dưới cao 10m, rộng 10m, sâu 20m, rất thuận tiện cho người nguyên thuỷ cư trú. Qua 4 đợt khai quật vào các năm 1972, 1973, 1980 các nhà khảo cổ học đã thu thập được 659 công cụ đá với nhiều loại hình công cụ “khác lạ về kỹ thuật chế tác”. Đó là các loại: Công cụ hòn cuội, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh cuội, công cụ mảnh tước.

Mái đá Ngườm, di chỉ quan trọng nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa, nằm trên sườn núi phía Bắc dãy núi Ngườm, thuộc bản Trung Sơn, cách Phiêng Tung chừng 1km về phía Nam. Đây là một mái đá khổng lồ, chiều rộng chừng 60m, chiều cao 30m, nằm ở độ cao 30m so với mặt sông Thần Sa chảy ngang trước mặt. Hố khai quật của di chỉ Ngườm cho thấy địa tầng có 4 tầng văn hoá khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của nền văn hoá Bắc Sơn, Hoà Bình, Sơn Vi nằm ở tầng 1, tầng 2, ở tầng 3 thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ở tầng văn hoá thứ 4, là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung. Ở Phiêng Tung và Ngườm, những công cụ mũi nhọn, công cụ nạo và kỹ thuật gia công lần thứ hai giống những công cụ và kỹ thuật điển hình của văn hoá Mút-xchi-ê, nền văn hoá tiêu biểu cho thời đại trung kì đồ đá cũ thế giới và gần gũi với nền văn hoá Trung kỳ đá cũ Ấn Độ Nevasien.

Những phát hiện khảo cổ học ở Phiêng Tung và Ngườm đã giúp các nhà khảo cổ học xác định được: Ở Thần Sa, ở Việt Nam có một nền văn hoá khảo cổ đá cũ – văn hoá Thần Sa. Chủ nhân của nền văn hoá Thần Sa là những người Homo Sapien (người khôn ngoan). Lần đầu tiên ở Việt Nam Giáo sư Hà Văn Tấn đã xác lập một kỹ nghệ khảo cổ học mới “Kỹ nghệ Ngườm”. Tại thung lũng Thần Sa, ngoài hai địa chỉ quan trọng nhất là Ngườm và Phiêng Tung, trong vòng bán kính vài cây số kể từ di chỉ Phiêng Tung còn có tới gần 10 di chỉ từng là nơi cư trú của người nguyên thuỷ. Đó là Ranh 1, Ranh 2, Ranh 3, Nà Ngùn, Nà Khù, Hạ Sơn 1, Hạ Sơn 2, Thắm Choong,…Thần Sa là nơi người nguyên thuỷ đã sống liên tục trong thời gian dài vài chục nghìn năm, từ thời đại đá cũ đến hậu kỳ đá mới, là nơi mà các phát hiện khảo cổ quan trọng đã góp phần chứng minh sự xuất hiện và phát triển liên tục của con người thuộc các nền văn hoá khảo cổ trên đất Việt Nam, từ Núi Đọ qua Thần Sa, Sơn vi, Hoà Bình, Bắc Sơn,… để bước sang thời sơ sử – thời đại kim khí với nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ. Ở Châu Á chỉ có di tích Lang Giong Riêng của Thái Lan và Bạch Liên Động ở Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với di tích khảo cổ học Thần Sa.

Do có một ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học, có một vị trí đặc biệt trong việc tìm hiểu về lịch sử tiến hoá của con người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam nói riêng và cả vùng Đông Nam Á lục địa, khu di tích khảo cổ học Thần Sa được Nhà nước xếp hạng Quốc gia năm 1982 và được Bộ Văn hoá Thông tin đưa vào mục Di tích đặc biệt của Quốc gia.

Nguồn: ditichlichsu.com

Tìm hiểu cách thức sử dụng trống đồng Đông Sơn qua tư liệu khảo cổ học và dân tộc học

Trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của nền văn hóa Đông Sơn. Trong 90 năm qua, kể từ ngày phát hiện văn hóa Đông Sơn, trống đồng Đông Sơn luôn được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu về tất cả các khía cạnh. Tuy nhiên, về chức năng cũng như cách thức sử dụng của trống đồng Đông Sơn vẫn chưa thực sự đồng nhất các quan điểm. Có ý kiến cho rằng, đây đơn thuần chỉ là một nhạc khí, nhưng cũng có ý kiến lại cho đây là vật biểu trưng quyền lực hoặc vừa là nhạc khí vừa là biểu trưng quyền lực. Song, xét về chung mọi ý kiến thì trống đồng là một loại nhạc khí được nhiều người công nhận hơn cả.

Là nhạc khí thì việc sử dụng nó được tiến hành ra sao? Vấn đề này cũng được các nhà khoa học dày công nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ yếu dựa trên các tư liệu về khảo cổ học và dân tộc học.

Thông qua các tư liệu về khảo cổ học

Trên khía cạnh khảo cổ học, nghiên cứu cách thức sử dụng trống đồng như một nhạc khí được căn cứ ở các đặc điểm trên bề mặt trống như cấu tạo, hiện trạng và hoa văn trên trống.

Về đặc điểm: Những trống đồng của văn hóa Đông Sơn đều thuộc loại I theo cách phân loại của F. Heger. Kết cấu trống đồng Đông Sơn gồm 4 phần: mặt, tang, thân và chân. Mặt trống hình tròn, giữa mặt đúc nổi hình mặt trời với 12 đến 18 tia, xung quanh trang trí nhiều băng hoa văn. Tang trống hơi phình ra, nối liền với mặt trống; thân trống hình trụ tròn thẳng đứng; phần chân hơi loe thành hình nón cụt. Có bốn chiếc quai chia làm hai cặp gắn vào tang và phần giữa trống, được trang trí hình bện thừng.

Như vậy vị trí đánh (gõ) trống chính là giữa mặt trống bởi chỗ này được đúc nổi hình mặt trời dày hơn để chịu nhiều tác động của vật đánh (dùi), các tia mặt trời sẽ làm lan tỏa âm thanh ra xung quanh. Tuy nhiên, phần tang và thân trống có thể cũng được đánh để tạo nên những đặc điểm âm thanh khác nhau. Ngoài ra, trống còn có một thùng cộng hưởng độc đáo: phần tang phình, phần thân và chân loe ra giúp cho trống có âm thanh vang xa, từ những âm thanh ban đầu được nhân lên về mặt cường độ. Một điều cần lưu ý là 4 quai trống được đúc đối xứng khá dày và chắc chắn. Điều này cho ta liên tưởng tới việc trống được luồn dây để treo lên trong quá trình sử dụng.

Về hiện trạng: Sau hàng nghìn năm tồn tại, nhiều chiếc trống đồng được tìm thấy còn tương đối nguyên vẹn. Xem xét về hiện trạng của nhiều chiếc trống đồng, ta thấy, phần lớn ở giữa mặt những chiếc trống, vị trí in nổi của mặt trời nhiều tia thường nhẵn, rỗ, hoặc bị biến dạng. Nguyên nhân có thể là do sự tác động thường xuyên của dùi? Điều này một lần nữa minh chứng trống chủ yếu được đánh/gõ vào vị trí chính giữa mặt trống.


Hình ảnh đánh trống trên mặt trống Cổ Loa (Nguồn: BTLSQG)

Trong nhiều tài liệu khảo cổ học, khi nhắc tới cách thức sử dụng trống đồng, phần lớn các tác giả đều dựa vào những họa tiết hoa văn trang trí trên trống. Xem xét trên bề mặt các trống như trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, trống Cổ Loa và trống Sông Đà… ta có thể thấy bề mặt mỗi chiếc trống đều có 2 cảnh người đánh trống đối xứng nhau qua tâm. Theo đó thì một dàn trống thường có 4 chiếc cạnh nhau, phía trên là bốn người trong tư thế ngồi hoặc đứng dùng một cái cây dài để gõ thẳng đứng lên mặt trống. Theo Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 1994) thì người xưa còn đào hố rộng ra rồi trống ở lơ lửng giữa hố, giúp âm thanh đã mạnh rồi lại mạnh hơn. Những hố cộng hưởng này còn thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.

Những tư liệu dân tộc học

Hiện nay, theo tác giả được biết, ở Việt Nam còn có một số dân tộc thiểu số sử dụng trống đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng, tiểu biểu như người Mường, người Lô Lô, người Pu Péo… Đây là tư liệu quan trọng để đối sánh, so sánh tìm ra phương pháp sử dụng trống đồng như một nhạc khí của cư dân Việt cổ.

Cách đánh trống đồng của dân tộc Mường hiện nay tương đối giống như mô tả trên mặt các trống đồng đã kể trên, tức là theo lối giã gạo. Người Mường cũng dùng những dùi trống dài như chày giã gạo với khoảng 3 – 4 người đứng xung quanh để đánh vào mặt trống theo hướng thẳng đứng. Xem ra, cách đánh này chủ yếu mang tính tượng trưng của một tiết tấu vũ điệu hơn là về hiệu quả âm thanh. Do đó có thể hiểu tư thế để úp nằm của nó là để tiện cho nhiều người diễn tấu cùng một lúc. Trên thực tế, người Mường cũng đặt trống trên một cái giá gỗ thấp gồm hai thanh gỗ bắt chéo hình chữ thập làm sàn kê, có 4 chân ngắn để bớt hạn chế về nguyên tắc âm thanh.

Theo cuốn Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 1997) thì phương thức diễn tấu trống đồng của các tộc khác như Lô Lô và Pu Péo tương đối giống với các dân tộc ở Hoa Nam (Trung Quốc).

Ngày nay, đồng bào Lô Lô nhiều vùng còn giữ được những bộ trống đồng, mỗi bộ gồm hai cái: trống đực (nhỏ hơn) và trống cái (to hơn). Trống có 4 quai bố trí thành từng cặp đối xứng nhau qua trục thân. Mặt và tang trang trí hoa văn nét nổi. Chính giữa mặt trống là hoa văn hình mặt trời với 12 tia. Trống đồng là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của người Lô Lô, tộc trưởng cất giữ trống đồng cho dòng họ, bảo quản bằng cách chôn xuống đất. Khi nào dùng thì mới đào lên. Khi dùng trống, họ đặt hai trống (đực và cái) treo quay mặt trống vào nhau. Người đánh trống đứng ở giữa cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống và có tới 36 điệu đánh trống. Trống đánh giữ nhịp cho các điệu múa dân gian.


Người Lô Lô ở Hà Giang sử dụng trống đồng (Nguồn: Internet)

Hiện nay, người Pu Péo chỉ dùng trống đồng trong lễ làm chay. Cũng giống người Lô Lô, trống của người Pu Péo có 1 bộ gồm 1 trống đực và 1 trống cái. Bình thường cất trống trên sàn gác. Trước khi dùng phải cúng từng chiếc trống với lễ vật là hai bát rượu, con gà. Cúng xong, đổ rượu lên mặt trống rồi mới treo trống. Trống được treo ở cạnh cửa ra vào ở gian giữa, trống đực treo bên trái, trống cái treo bên phải. Hai mặt trống quay vào nhau. Người đánh trống phải là đàn ông đứng ở giữa dùng củ chuối gõ vào hai mặt trống theo sự điều khiển của thầy cúng. Người ta đánh trống, vui múa suốt một đêm một ngày. Đồng bào tin rằng hồn ngô lúa rất sợ tiếng trống vì thế họ chỉ làm chay sau khi mùa màng đã thu hoạch xong. Nhưng nếu vì hoàn cảnh phải dùng trống sớm hơn thì chỉ được đánh ba tiếng trống thôi – trống đực đánh một tiếng, trống cái hai tiếng.

Cách đánh trống của người Lô Lô và Pu Péo mô tả ở trên cũng cho thấy một phần cách nhìn này đối với từng cặp trống đực – cái có cao độ khác nhau.

Một vài nhận xét

Như vậy có thể thấy, trống đồng là một nhạc khí, vị trí để tác động lên trống chủ yếu là trung tâm của mặt trống, nơi có hình mặt trời được đúc khá dày. Tuy nhiên để tạo ra được những âm thanh khác nhau, có thể những vị trí xung quanh đó, bảo gồm cả tang và thân trống cũng được tận dụng để tác động.

Về tư thế, trống đồng được đánh dựa trên 2 kiểu chính: thứ nhất, ngửa mặt trống lên và tác động thẳng đứng xuống trung tâm mặt trống. Phía dưới chân trống có thể được kê lên cao hoặc tạo những “hố cộng hưởng”. Tuy nhiên, cách này chủ yếu mang tính chất diễn tấu, không mang lại hiệu quả về âm thanh; thứ 2, trống được buộc dây vào quai và treo lên, người đánh dùng dùi tác động vào mặt hoặc thân và tang trống. Cách này tạo có thể tạo ra được hiệu quả về âm thanh hơn và hiện nay vẫn còn được một số dân tộc thiểu số sử dụng.

Tùy thuộc vào kiểu đánh trống mà vật tác động lên trống (dùi) cũng dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên, những chiếc dùi được làm bằng gỗ, đầu bọc vải để hạn chế làm biến dạng hoa văn trên trống.

Trải qua trên dưới 2000 năm, bên cạnh việc bảo lưu những nét đặc trưng từ thời Đông Sơn thì cũng có nhiều nét văn hóa đã mất, trong đó có phong tục đánh và sử dụng trống đồng. Do đó, việc phục dựng lại truyền thống đánh trống đồng ở người Việt hiện nay cũng còn nhiều quan điểm và luận giải khác nhau. Với phương pháp tiếp cận liên ngành khảo cổ học và dân tộc học, chúng ta có thể tìm hiểu về cách thức đánh trống đồng của người Việt cổ một cách tương đối toàn diện. Tuy nhiên, bài viết này chỉ có thể đưa ra những tư liệu mang tính chất gợi mở. Trong tương lai, cần có những nghiên cứu thêm về vấn đề này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Minh Huyền 1996. Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

2. Hán Văn Khẩn (Chủ biên) 2008. Cơ sở Khảo cổ học. Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Đình Khoa 1983. Các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1994. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

5. Phạm Huy Thông (Chủ biên) 1990. Dong Son Drums in Viet Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Viện dân tộc học 1987. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Nhiều tác giả 1999. Phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Nxb. Văn hóa – Dân tộc, Hà Nội.

Về gốm Đường Cồ – một loại gốm thuộc văn hóa Đông Sơn

Trong văn hóa Đông Sơn, chúng ta thường bắt gặp một thuật ngữ quen thuộc là “gốm Đường Cồ”. Vậy gốm Đường Cồ là gì? Tại sao lại gọi là gốm Đường Cồ?

Đường Cồ là một địa điểm khảo cổ học thuộc thôn Liệt Phương, xã Hoài Đức, huyện Phú Xuyên (Hà Nội). Từ kết quả khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã chú ý tới một loại hình gốm với những nét đặc trưng như kiểu miệng loe thành cong lòng máng, văn thừng thô, tạo thành những vết lõm như tổ ong, màu gốm trắng mốc, phớt hồng. Qua so sánh nhận thấy, đây là loại gốm phổ biến trong các di chỉ khảo cổ học thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn khu vực trung du và đồng bằng Bắc bộ, có sự khác biệt so với gốm ở lưu vực sông Mã, sông Cả. Từ đó, thuật ngữ “gốm Đường Cồ” bắt đầu được sử dụng để chỉ loại hình gốm địa phương tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.

Gốm Đường Cồ trắng mốc và phớt hồng tại di chỉ khảo cổ học Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội (Nguồn: Lương Thị Hà)

Gốm Đường Cồ thể hiện sự tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật chế tác gốm trong văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ. Đất sét pha cát tương đối mịn, đều để làm xương gốm được chọn, sàng lọc cẩn thận, ít tạp chất nên gốm tương đối đanh, cứng và ít thấm nước. Gốm được nung ở nhiệt độ khá cao, khoảng 900oC. Bề ngoài gốm có màu sáng: trắng đục ngả vàng, hồng nhạt hay trắng mốc. Bên trong gốm có màu xám đen đều.

Tuy nhiên, về kiểu dáng và hoa văn trang trí, nhìn chung gốm Đường Cồ có phần suy giảm đáng kể so với các giai đoạn trước. Có lẽ, những người thợ Đông Sơn đã tập trung thời gian, trí lực, công sức vào các loại hình đồ đồng nhiều hơn. Bởi lẽ, các loại hình và đồ án hoa văn đẹp mắt mà ta thấy trên đồ gốm của giai đoạn trước đều có mặt trên đồ đồng của văn hóa Đông Sơn.

Gốm Đường Cồ trong mộ Đông Sơn tại di chỉ khảo cổ học Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội

Gốm Đường Cồ phân bố chủ yếu ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, có nguồn gốc và phát triển trực tiếp từ giai đoạn văn hóa Gò Mun. Kết quả khai quật tại di chỉ Vinh Quang (Hoài Đức, Hà Nội) đã chứng tỏ điều này. Đồ gốm lớp dưới di chỉ này mang tính chất của gốm Gò Mun, càng lên các lớp trên, tần suất xuất hiện của gốm Đường Cồ càng nhiều, đến lớp trên cùng (thuộc văn hóa Đông Sơn), chỉ còn tìm thấy gốm Đường Cồ. Bên cạnh gốm Đường Cồ ở lưu vực sông Hồng, loại hình gốm địa phương của văn hóa Đông Sơn còn có gốm Đông Sơn ở lưu vực sông Mã, gốm Làng Vạc ở lưu vực sông Cả.

Như vậy, gốm Đường Cồ là một trong 3 loại gốm tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn tuy không được chú ý về hình thức như đồ đồng, song, gốm có chất lượng tốt, kỹ thuật cao hơn so với loại hình gốm lưu vực sông Mã hay sông Cả. Gốm Đường Cồ được phát triển trực tiếp từ loại gốm Gò Mun lên. Cùng với hiện vật đồng, trong văn hóa Đông Sơn, những hiện vật gốm đã phản ánh một cách khách quan đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Việt cổ giai đoạn này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Những nhận thức ban đầu về trống đồng

Trống đồng là một hiện vật tiêu biểu và độc đáo xuất hiện từ thời đại đồ đồng của các quốc gia ở vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Những chiếc trống đầu tiên được phát hiện cách đây hơn 100 năm bởi những nhà sưu tập cổ vật và những học giả phương Tây.

Khi đó, những nhận thức của họ về trống đồng rất mơ hồ. Chỉ đến khi Frans Heger (1853-1931), một nhà khảo cổ học người Áo đi sâu tìm hiểu thì những nhận thức về trống đồng mới bắt đầu được định hình.


Frans Heger (1853-1931) (nguồn: Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Áo).

Trong nghiên cứu của mình, Heger cho biết, vào năm 1882, Bảo tàng triều đình và hoàng đế nước Áo về nghệ thuật và công nghệ tổ chức một cuộc trưng bày về đồ đồng. Tại đây, có một hiện vật lớn bằng đồng thể hiện theo hình nổi đã làm cho các nhà khảo cổ học và những người sành về nghệ thuật hết sức chú ý về hình dáng và kích thước của nó. Bề mặt hiện vật bao phủ một lớp thanh đồng và có những dấu vết trang trí có một tính chất hết sức đặc biệt. Theo những ghi chép của Heger, người ta đã suy nghĩ đến “nát óc” về ý nghĩa của hiện vật đáng chú ý đó cũng như về nguồn gốc và niên đại của nó. Một vài người cho rằng đó là một cái bàn có hình dạng đặc biệt, những người khác lại cho rằng đó là một cái nồi. Tuy nhiên, theo quan sát của Heger, “trên bề mặt có những hình trang trí phần thì đúc nổi, phần thì khắc chìm bao phủ khắp diện tích hiện vật và những hình còn lại có mặt ở phía ngoài của thành hình tròn, rìa của tấm hình tròn đạy khít mặt phía trên. Điều này làm cho ông nghi ngờ về hai giả thiết trên. Những quan niệm về xuất xứ của hiện vật này lại càng khác biệt nhau hơn nữa. Người ta phỏng đoán rằng có lẽ xuất xứ của hiện vật đó là vùng Syria hoặc là ở vùng Trung Á. Nhưng một vài nhà khảo cổ lại cho rằng hiện vật đó là từ vùng Mech xích cô. Chỉ có một điều có thể khẳng định, qua hình dạng bên ngoài và hoa văn trang trí thì đây là hiện vật quý có niên đại rất cổ.

Theo tìm hiểu của Heger, người có hiện vật này và đưa ra trưng bày là Bá tước Hans Graf Ilesek. Năm 1880, ông đã mua được của một người buôn bán đồ cổ ở Florence (Ý), người này cũng mua lại được của một người buôn bán trung gian. Thời gian đó cũng như sau này không có chi tiết gì chính xác về xuất xứ của hiện vật cổ.

Trong tập ảnh giới thiệu triển lãm về đồ đồng lịch sử trong Bảo tàng triều đình và hoàng đế nước Áo về nghệ thuật và công nghệ, in lần thứ 2 ở Vienna năm 1883, hiện vật này được mô tả với số 510, trang 24 như sau: “Chậu lớn, đúc, trang trí rất phong phú bằng những hình cổ sơ. Trên thành có một băng trang trí bằng hình, trông có vẻ là con cá vẽ cách điệu. Đường kính ở đáy là 0,745m, đường kính ở miệng 0,60m, chiều cao 0,35m. Xuất xứ không rõ. Mua được ở Ý, có lẽ là đồ nhập cảng”.

Vì ở đây người ta cho rằng hiện vật đó là một đồ để chứa đựng nên đã đặt tấm mặt trang trí đặt xuống phía dưới. Cũng vì quan niệm sai như vậy nên chúng ta sẽ gặp một trường hợp tương tự một cách ngẫu nhiên và chính vì vậy không lấy gì làm lý thú cả.

Phải đến năm 1883, tác giả của những đồ đồng này tìm đến một người có tên là Anton Payer. Anton Payer là người Áo nhưng đã làm việc trong một thời gian dài ở triều đình của vua Xiêm và trước đó đã trải qua 3 năm theo Phật giáo. Qua đó Anton Payer đã thu lượm được một sự hiểu biết chính xác về đất nước này, về những người dân và nền văn hóa của đất nước này. Mùa hè năm 1883, khi họ thăm triển lãm đồ đồng, Anton Payer quan sát thật kỹ vô số hiện vật bằng đồng thuộc miền đông châu Á, trong đó có cả hiện vật mà ta đang nói tới. Khi trông thấy hiện vật này, Payer xăm xăm bước tới và khi nghe hỏi về xuất xứ và ý nghĩa của nó đã trả lời một cách chắc chắn: “Hiện vật này là một cái trống và xuất xứ là ở Xiêm”. Anton Payer phân tích, chiếc trống này được buộc dây thừng vào 4 chiếc quai và treo lên giá gỗ, mỗi chiếc trống như vậy đều có một chiếc dùi để gõ lên hình ngôi sao trên giữa tấm mặt tròn. Những chiếc trống này hiện nay vẫn còn được sử dụng trong cung điện vua Xiêm và một số ngôi chùa Phật giáo.

Từ đây, F. Heger bắt đầu hướng nghiên cứu mới của mình với loại hình trống đồng. Ông phát hiện ra rằng, trống đồng không chỉ phổ biến ở Thái Lan mà cả ở toàn khu vực Đông Nam Á. Ông cũng khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở vùng này. Những nghiên cứu về trống đồng của Heger đặc biệt là cách phân loại trống đã được các nhà nghiên cứu sau này sử dụng một cách rộng rãi như một ghi nhận đối với công lao của ông đối với việc nghiên cứu trống đồng.

 

Trống đồng Ngọc Lũ, Bảo vật Quốc gia của Việt Nam

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tài liệu tham khảo:

1. Frans Heger 1902. Trống đồng ở Đông Nam Á, Bản dịch của Viện Kỹ thuật Mỹ nghệ Việt Nam (Tư liệu đánh máy của Bảo tàng Lịch sử quốc gia).

2. Phạm Huy Thông 1990, Dong Son Drums in Vietnam, Nxb. Khoa học Xã Hội.

3. http://www.zobodat.at/D/runD/D/cacheD/personen_details.php?nr=53339.

Tổng thuật tọa đàm khoa học quốc tế: Văn hóa Đông Sơn và nguồn gốc dân tộc Việt

Trong các ngày từ mồng 8 đến 10 tháng 8 năm 2014, tại Hà Nội và Thanh Hóa, Viện Khảo cổ học phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa tổ chức Tọa đàm khoa học Quốc tế “Văn hóa Đông Sơn và nguồn gốc dân tộc Việt”. Hội thảo được tổ chức nhằm nhìn nhận lại 90 năm nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn (VHĐS) kể từ khi được phát hiện (năm 1924) và thảo luận một số vấn đề cần được tiếp tục quan tâm, khi gần đây có ý kiến phủ nhận các kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội Việt Nam về tính bản địa và chủ nhân của nền văn hóa này. Tham dự hội thảo có các nhà nghiên cứu Khảo cổ học, Dân tộc học, Sử học …Việt Nam, Nhật Bản, Lào, Campuchia.

Mở đầu cuộc tọa đàm là tham luận của PGS.TS Nguyễn Giang Hải – PGS.TS Trình Năng Chung (Văn hóa Đông Sơn – chín mươi năm phát hiện và nghiên cứu) nhìn nhận lại lịch sử phát hiện và nghiên cứu của VHĐS. Vào mùa hè năm 1924, di tích Đông Sơn được phát hiện tình cờ do một người nông dân đi câu cá tìm thấy một số đồ đồng xuất lộ bên sông Mã. Từ năm 1924 đến 1932, các cuộc khai quật Đông Sơn lần đầu tiên được tiến hành dưới sự điều khiển của L. Pajo – một viên chức Pháp và cũng là người sưu tập cổ vật ở Thanh Hóa. Sự kiện này gây sự chú ý lớn đối với giới khoa học của trường Viễn Đông Bác cổ Pháp. Từ sau đó, hàng loạt cuộc khai quật và nghiên cứu di chỉ Đông Sơn cùng các sưu tập hiện vật ở khắp miền Bắc Việt Nam thu hút sự quan tâm của giới khoa học trong khu vực. Đến năm 1934, Nhà khảo cổ học người Áo R. Heine Geldern đề nghị gọi thời kỳ của nền văn hóa này là “Văn hóa Đông Sơn”. Thuật ngữ này nhanh chóng được thừa nhận và sử dụng rộng rãi song nội dung của nền văn hóa này (chủ nhân, niên đại, đặc trưng…) lại được diễn giải theo nhiều hướng khác nhau.
Sau năm 1954, ngành Khảo cổ học non trẻ Việt Nam tiến hành điều tra cơ bản và nghiên cứu, nhằm làm rõ hơn các nội dung của VHĐS. Hàng loạt các di chỉ được phát hiện ở nhiều địa phương trên toàn miền Bắc, trong đó có những phát hiện quan trọng như các di chỉ Phùng Nguyên (Phú Thọ), Thiệu Dương (Thanh Hóa), Gò Mun (Phú Thọ), Đồng Đậu (Vĩnh Phúc), Làng Vạc (Nghệ An), kho mũi tên đồng ở Cổ Loa, thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), mộ thuyền Việt Khê (Hải Phòng) v. v. Với nhiều công trình nghiên cứu vừa tổng hợp, vừa chuyên sâu được công bố, các khía cạnh của VHĐS lần lượt được làm sáng tỏ, song vẫn còn nhiều vấn đề tranh luận. VHĐS vẫn là đề tài có sức thu hút lớn của các nhà khoa học trên con đường dài tìm hiểu lịch sử dựng nước của tổ tiên ta.

Trống đồng Đông Sơn

Sau tham luận mang tính tổng hợp trên đây, 13 tham luận đã được trình bày cùng các ý kiến trao đổi tại cuộc tọa đàm, đã làm sáng tỏ hơn nhiều vấn đề khoa học như là những nhận thức cơ bản về VHĐS.

1.Về không gian phân bố

Đến nay, thống kê chưa đầy đủ, gần 400 di tích Đông Sơn được phát hiện và nghiên cứu. Các nhà khảo cổ học đều cho rằng, VHĐS bao quát địa bàn ba vùng: vùng sông Hồng với trung tâm là làng Cả (tỉnh Phú Thọ); vùng sông Mã, sông Chu, với trung tâm là làng Đông Sơn (tỉnhThanh Hóa); vùng sông Cả với trung tâm là làng Vạc (tỉnh Nghệ An); về cơ bản trùng với miền Bắc Việt Nam hiện nay; song cư dân Đông Sơn sống tập trung ở đồng bằng là chính. Quá trình tạo lập VHĐS cũng chính là quá trình các cộng đồng cư dân chiếm lĩnh đồng bằng – nơi có đất đai rộng, thích hợp với việc trồng lúa nước. Giữa ba trung tâm trên có mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên giao lưu, trao đổi với nhau, tạo nên sắc thái Đông Sơn thống nhất trong đa dạng. Sự tồn tại hàng mấy trăm di tích trong một không gian văn hóa với những môi trường sinh thái đa dạng là cơ sở cho việc hình thành các loại hình địa phương tiêu biểu. Tính đa dạng này thể hiện qua địa tầng học, chủ yếu trong di tích Đông Sơn ở Thanh Hóa, ở tổng thể các hiện vật Đông Sơn (chủ yếu ở loại hình trống đồng Đông Sơn); qua các phạm trù, các khái niệm, các nhận thức của các nhà nghiên cứu Khảo cổ học, Sử học, Văn học dân gian (Tham luận – TL của PGS.TS Phạm Minh Huyền, PGS.TS Trình Năng Chung).

Tuy nhiên, tham luận của PGS.TS Phạm Đức Mạnh (Dấu ấn Đông Sơn ở “phương Nam” Việt Nam) đưa ra những chứng cứ khảo cổ học xác đáng về “cuộc di cư của cư dân VHĐS vào miền Trung, vùng các cao nguyên Nam Trung Bộ từ đầu thế kỷ I sau Công nguyên”. Khi đi vào vùng đất mới, cư dân VHĐS đã hòa nhập với cư dân bản địa thuộc Văn hóa Sa Huỳnh, sáng tạo ra một trung tâm khai khoáng luyện kim đúc trống đồng Đông Sơn. Việc phát hiện các “nghĩa trang trống đồng kiểu Đông Sơn” ở Nam Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ …là minh chứng rõ nhất cho sự chuyển cư của cư dân Đông Sơn đến các vùng đất này; từ đó có nhà khoa học đưa ra luận điểm về “Ba khối kết tinh Đông Sơn- Sa Huỳnh- Đồng Nai” với các đặc trưng chung về kỹ thuật tinh chế kim loại màu “kiểu Đông Sơn” lan truyền theo đường bộ, đường thủy…, tạo ra tam giác phát triển Bắc -Trung – Nam của VHĐS.

Đặc biệt, hai tham luận (Giới thiệu sơ lược về những phát hiện VHĐS tại huyện Sepon, tỉnh Savannakhet, CHDCND Lào) của nhà nghiên cứu Lào – TS Thonglith Luangkhot và của các nhà nghiên cứu Campuchia (Trống đồng Đông Sơn ở Đông Nam Campuchia) thu hút sự quan tâm của các giới khoa học Việt Nam trong cuộc tọa đàm; chứng minh VHĐS có phạm vi phân bố và có sức lan tỏa rộng rãi.

2. Về niên đại và các giai đoạn phát triển

Các nhà nghiên cứu Việt Nam đều thống nhất VHĐS tồn tại từ cuối thời đại đồ đồng thau đến đầu thời đại đồ sắt, từ thế kỷ VIII – VII trước Công nguyên (tr. CN) đến thế kỷ I – II sau Công nguyên (s. CN). Tuy nhiên, việc phân giai đoạn còn có những ý kiến khắc nhau. Đa số các ý kiến đều cho rằng, VHĐS trải qua ba giai đoạn phát triển kế tục nhau:

– Giai đoạn sớm (thế kỷ VIII – VI tr. CN) là giai đoạn chuyển tiếp từ Văn hóa Tiền Đông Sơn lên Đông Sơn. Các di chỉ tập trung ở vùng đồng bằng cao xung quanh Hà Nội.

– Giai đoạn giữa (thế kỷ V – III tr. CN) là giai đoạn những đặc trưng cơ bản của VHĐS phát triển rực rỡ. Bộ di vật đồ đồng đặc trưng Đông Sơn phong phú về chủng loại và số lượng. Trống đồng xuất hiện là biểu hiện của kỹ thuật đúc đồng đạt tới đỉnh cao cả về kỹ thuật và mỹ thuật. Bộ đồ sắt cũng được hoàn thiện. Đây cũng là giai đoạn VHĐS có mối giao lưu mạnh với các khu vực lân cận.

– Giai đoạn muộn (thế kỷ II tr. CN – thế kỷ I – II s. CN) xuất hiện di tích thành lũy Cổ Loa và các kho vũ khí, mộ thuyền phát triển, trống đồng được phát hiện nhiều…; đồng thời xuất hiện các hiện vật của văn hóa Hán ở lớp trên của VHĐS và trong các ngôi mộ Đông Sơn muộn (TL của Trình Năng Chung và các TL khác).

Tuy nhiên lại có ý kiến chia VHĐS thành 4 giai đoạn ứng với các di chỉ Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun và Đông Sơn), hoặc 5 giai đoạn (TL của Phạm Minh Huyền), hay 6 giai đoạn phát triển (ý kiến trao đổi của Diệp Đình Hoa) dựa trên các loại hình văn hóa địa phương.

3. Về đặc trưng bộ sưu tập hiện vật của VHĐS

Phần lớn hiện vật của VHĐS được phát hiện trong các di chỉ cư trú và khu mộ táng, rất phong phú, gồm nhiều chất liệu khác nhau (đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, đồ xương…). Chiếm số lượng nhiều nhất, đẹp nhất, có tính tiêu biểu trong số các loại hiện vật này là nhóm đồ đồng, được chủ nhân Đông Sơn tạo ra với kỹ thuật đúc điêu luyện và tính thẩm mỹ cao. Hơn 400 trống đồng Đông Sơn được phát hiện được coi là di vật tiêu biểu nhất cho quá trình dựng nước của cư dân Đông Sơn. Ngoài ra còn có các công cụ sản xuất (tiêu biểu là lưỡi cày), dụng cụ sinh hoạt (tiêu biểu là thạp đồng), đồ trang sức, vũ khí (tiêu biểu là mũi tên đồng, giáo…).

4. Cơ sở kinh tế – xã hội của VHĐS

Cư dân Đông Sơn cư trú chủ yếu ở vùng đồng bằng và trung du nên sống bằng nghề trồng lúa với ba hình thức canh tác đất khác nhau: nông nghiệp dùng gậy chọc lỗ ở miền núi, nông nghiệp dùng cuốc ở trung du và nông nghiệp dùng dùng cày ở đồng bằng, trong đó nông nghiệp dùng cày (canh tác lúa nước) là chủ đạo, với trình độ cao, là sự kế tục của nghề nông từ hậu kỳ đá mới. Điều này được chứng minh qua các dấu tích thóc gạo, vỏ trấu, các công cụ (liềm, cuốc, lưỡi cày…), các đồ chứa đựng. Các dấu tích này phù hợp với ghi chép trong các tài liệu thư tịch cổ Trung Quốc. Ngoài lúa nước, cư dân Đông Sơn còn trồng các loại cây củ, cây rau (được chứng minh qua phân tích bào tử phấn hoa).

Thời kỳ VHĐS cũng là thời kỳ các nghề thủ công phát triển mạnh với các nghề luyện kim, đúc đồng, làm gốm, chế tác đá, dệt vải, đan lát, mộc, sơn, nấu thủy tinh… được phát hiện dấu tích trong các di chỉ khảo cổ học (TL của PGS.TS Trình Năng Chung, PGS.TS Trịnh Sinh).

Sự phát triển của các ngành kinh tế tạo tiền đề cho sự phân hóa xã hội. Tham luận của Trịnh Sinh (Hệ thống văn hóa Tiền Đông Sơn – Đông Sơn và vấn đề nhà nước sớm ở miền Bắc Việt Nam) chỉ ra những biểu hiện của phân hóa xã hội qua các dấu tích khảo cổ học, qua thư tịch, từ đó xuất hiện xung đột và chiến tranh, xuất hiện các thủ lĩnh quân sự, liên minh các bộ lạc, dẫn đến sự hình thành quốc gia và nhà nước. 15 bộ hợp thành quốc gia Văn Lang mà sử cũ ghi lại, theo Trịnh Sinh ứng với 11 trung tâm kinh tế – chính trị của VHĐS trên địa bàn lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu và sông Lam. Thời kỳ VHĐS cũng là thời kỳ hình thành các phong tục, tín ngưỡng, đời sống tinh thần với các yếu tố được bảo lưu đến ngày nay (TL của Trình Năng Chung, Bùi Xuân Đính).

5. Về chủ nhân của VHĐS

Đây là vấn đề được thảo luận sôi nổi từ trước đến nay cũng như tại cuộc tọa đàm này. Trước đây, nhiều nhà khoa học nước ngoài và một số nhà khoa học Việt Nam cho VHĐS có nguồn gốc bên ngoài Việt Nam, như từ vùng thảo nguyên Âu – Á (Janse, 1947), từ lưu vực sông Hoài ở Trung Quốc (B. Karigen, 1942), hay từ bờ Biển Đen (Geldern, 1951), từ Chiết Giang – Trung Quốc (Đào Duy Anh, 1957), từ ngoài biển và hải đảo (Bình Nguyên Lộc, 1971). Gần đây, trong cuốn Nguồn gốc người Việt – người Mường mới xuất bản năm 2013, Tạ Đức cho rằng, các nền văn hóa Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun – Đông Sơn thuộc hai chủ nhân khác nhau: người Mường (vốn là người Mon, Man hay Mân Việt ở Phúc Kiến – Đông Bắc Quảng Đông) chuyển đến Việt Nam lập ra các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun; còn chủ nhân đích thực của Văn hóa Đông Sơn là người La Va hay Lạc Việt, từ vùng Chiết Giang đến Việt Nam sau người Mường (cách đây trên dưới 3000 năm). Sự ra đời và phát triển của nền Văn hóa Đông Sơn về cơ bản gắn với các cuộc thiên di của các nhóm Bách Việt từ phương Bắc.

Các tham luận của Nguyễn Khắc Sử (Đi tìm nguồn gốc văn hóa Đông Sơn), Bùi Xuân Đính (Các tộc người thuộc ngôn ngữ Việt -Mường và Văn hóa Đông Sơn) và các tham luận khác kế thừa các thành tựu nghiên cứu khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học… đã chứng minh Văn hóa Phùng Nguyên mang tính bản địa ở Bắc Bộ; được coi là “khúc mở đầu” cho các văn hóa tiền Đông Sơn, tạo ra Phổ hệ Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun – Đông Sơn, mang tính liên tục cho diễn trình hình thành và phát triển VHĐS ở lưu vực sông Hồng; có sự tương hợp giữa địa bàn phân bố của VHĐS với địa bàn cư trú của các tộc người thuộc ngôn ngữ Việt – Mường. Chủ nhân của của VHĐS là người Lạc Việt, tức Việt cổ, trước đây được cho là tổ tiên của người Việt và người Mường hiện nay. Tham luận của Bùi Xuân Đính còn mở rộng ra với cả người Thổ (gắn với trung tâm làng Vạc ở Nghệ An) và người Chứt. Điều này được minh chứng không chỉ ở chính các di tích khảo cổ học mà còn các phong tục, tín ngưỡng, ở sự tương đồng giữa hoa văn trống đồng Đông Sơn và hoa văn cạp váy Mường, giữa nghệ thuật Đông Sơn và nghệ thuật đầu váy Mường, đặc biệt là chứng tích ngôn ngữ – yếu tố “bảo thủ”nhất trong các yếu tố văn hóa. Giữa tiếng Việt với tiếng Mường, Thổ, Chứt có sự giống nhau đậm đặc cả về âm, thanh điệu, cấu trúc câu và vốn từ vị cơ bản; là sự giống nhau hiếm thấy giữa ngôn ngữ các tộc người. Cách đây khoảng trên dưới 4000 năm, người Việt Cổ có sự phân hóa, dần dần hình thành các khối. Khối chuyển xuống vùng châu thổ Sông Hồng, môi trường sống thay đổi, sau đó chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, dần dần trở thành người Việt (Kinh). Khối sống ở các thung lũng chân núi tỉnh Hòa Bình và một phần tỉnh Thanh Hóa, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, trở thành người Mường hiện nay. Khối ở lại khu vực đồi núi tỉnh Nghệ An và một phần Thanh Hóa, hình thành những yếu tố văn hóa riêng để trở thành người Thổ; một nhóm ở Hà Tĩnh, Quảng Bình trở thành người Chứt. Trong bốn tộc người trên, hai tộc Việt và Mường còn đậm dấu vết VHĐS nhất, thể hiện không chỉ ở tiếng nói, mà cả phong tục, tín ngưỡng, (nhất là tục và tín ngưỡng liên quan đến trống đồng), văn học dân gian.

Về một số ý kiến cho rằng, chủ nhân của VHĐS có nguồn gốc bên ngoài, tham luận của Nguyễn Khắc Sử (Đi tìm nguồn gốc VHĐS), chứng minh VHĐS có nguồn gốc từ tiền Đông Sơn với các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun. Chủ nhân của Văn hóa Phùng Nguyên không phải là người Mân (Môn) từ Phúc Kiến chuyển cư bằng đường biển sang, định cư ở Phú Thọ và lập ra văn hóa này mà là các cư dân sở tại ở Bắc Việt Nam, hoặc ở ngay vùng trung du Bắc Bộ, hoặc từ các vùng núi phía Bắc (Sơn La), phía Tây (Hòa Bình) hay Tây Nam (Thanh Hóa)… Tham luận của Trình Năng Chung (Mối quan hệ giữa VHĐS và Văn hóa Khả Lạc ở Nam Trung Quốc) chỉ ra những nét khác nhau cơ bản giữa hai nền văn hóa này, thể hiện qua các yếu tố: nghề trồng lúa, đồ gốm, muôi đồng, đồ trang sức, bộ sưu tập nhạc khí ở mộ táng, bộ sưu tập vũ khí, tục chôn cất và mộ táng,…; từ đó đưa ra kết luận, giữa VHĐS và Văn hóa Khả Lạc dù có mối quan hệ nhất định, nhưng về cơ bản là khác biệt nhau; trong sưu tập văn hóa Khả Lạc rất khó tìm được tinh hoa của VHĐS, ngược lại, những ảnh hưởng của dấu ấn Khả Lạc trên đất Đông Sơn rất mờ nhạt, do vậy, luận điểm VHĐS do người Khả Lạc thiên di sang và lập ra là không có cơ sở. VHĐS có quan hệ với Sa Huỳnh, Nam Trung Quốc, các nền văn hóa ở khu vực Đông Nam Á hải đảo và lục địa; song không phải là yếu tố chủ đạo. Cội nguồn của VHĐS nằm trong nội lực của chính các nền văn hóa tiền Đông Sơn; không phải từ các yếu tố xa lạ như các học giả nước ngoài từng suy luận và gần đây một số tác giả trong nước cho rằng văn hóa và con người Đông Sơn là kết quả của sự thiên di. Thời kỳ VHĐS có thể có các nhóm cư dân từ nơi khác đến song không phải là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa này. Chủ nhân của VHĐS là người Việt Cổ – những cộng đồng đã sinh sống và khai thác ba dòng sông Hồng – Mã – Lam từ khá lâu và đến thời Đông Sơn đã lập ra nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc (TL của Trịnh Sinh).

VHĐS phát triển từ nội lực song cũng một phần nhờ giao lưu với các văn hóa khác. Giao lưu giúp cho VHĐS có thêm sức sống mãnh liệt, hình thành bản lĩnh mang tính cách Việt: năng động, giao lưu rộng mở, nhưng không mất đi bản sắc riêng. Chính điều này làm cho VHĐS tiếp tục tồn tại và phát triển trong giai đoạn đầu thời Bắc thuộc. Sức sống VHĐS chống lại quá trình Hán hóa trong thời Bắc thuộc là phản ánh quá trình đấu tranh của người Việt thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến Hán tộc; trong lúc đó các quốc gia của các nhóm Bách Việt khác ở Nam Trung Quốc hình thành cùng nước Văn Lang lần lượt bị nhập vĩnh viễn vào đế chế Trung Hoa. Điều này được khẳng định qua tham luận của Hoàng Xuân Chinh (Sức sống VHĐS trong nghìn năm Bắc thuộc).

Tóm lại, VHĐS có nguồn gốc bản địa, có nền tảng cơ sở từ thời đại đồ đồng và xa hơn là thời đại đá mới ở Việt Nam; chủ nhân của VHĐS chính là các tộc người thuộc ngôn ngữ Việt Mường hiện nay. Đó là sự khẳng định lại một lần nữa từ cuộc tọa đàm khoa học quốc tế “Văn hóa Đông Sơn và nguồn gốc dân tộc Việt”.

VHĐS là đề tài lớn, hấp dẫn. Cuộc tọa đàm nhỏ này chưa thể giải quyết được các vấn đề còn đang tranh luận. Được biết, sắp tới Viện Khảo cổ học được Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam giao thực hiện chương trình nghiên cứu “Sức sống Văn hóa Đông Sơn”. Viện cũng phối hợp với các đồng nghiệp Lào, Campuchia và Thái Lan thực hiện chương trình nghiên cứu “Hành lang văn hóa Đông Tây”, nhằm làm sáng tỏ hơn các vấn đề về nền văn hóa truyền thống, bản địa của mỗi nước./.

Nguồn tin: vanhoanghean.com.vn

Bảo vật Quốc gia: Mộ thuyền Việt Khê, ngôi mộ thuyền lớn nhất của văn hóa Đông Sơn

Mộ thuyền là một trong những táng tục đặc trưng của văn hóa Đông Sơn. Cho đến nay, mộ thuyền đã được phát hiện trong nhiều di tích Đông Sơn, cung cấp những tư liệu quý báu cho chúng ta tìm hiểu về tính chất cũng như các mối quan hệ của văn hóa nổi tiếng này. Một trong những phát hiện sớm nhất và quan trọng nhất về mộ thuyền trong văn hóa Đông Sơn đó là ngôi mộ Việt Khê (mộ số 2 – M2).

Mộ Việt Khê M2 được phát hiện vào năm 1961 cùng với 4 mộ thuyền khác tại một cánh đồng ven sông Hàn, thuộc thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trong 5 ngôi mộ, mộ Việt Khê M2 là quý giá nhất bởi còn khá nguyên vẹn và có nhiều đồ tùy táng, với hơn 100 hiện vật chôn theo.


Mộ Việt Khê được phát hiện tại công trường đào đất Việt Khê, xã Phù Ninh, huyện Thủy Nguyên,

thành phố Hải Phòng năm 1961

Đây là ngôi mộ thuyền lớn nhất của văn hóa Đông Sơn, làm từ thân cây khoét rỗng, có hình dáng như một chiếc thuyền độc mộc với một đầu to, một đầu nhỏ. Quan tài có tiết diện hình tròn, gồm có phần thân và phần nắp, dài khoảng 4,76 m, cao khoảng 0,6 m. Mặt trong của quan tài được khoét rất đều và đẹp, nhưng mặt bên ngoài chỉ được bóc lớp vỏ cây chứ không có vết chế tác.


Mộ thuyền Việt Khê, Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.500 – 2.000 năm. Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2013

Đây cũng là ngôi mộ thuyền có nhiều đồ tùy táng nhất trong văn hóa Đông Sơn, với hơn 100 hiện vật, bao gồm đồ đồng, đồ sơn, một số đồ tre gỗ và da, nhưng không thấy có đồ sắt và đồ gốm. Những đồ tùy táng này được sắp xếp như sau: ở đầu to xếp những hiện vật cỡ lớn như trống, thạp, bình, đỉnh; ở đầu nhỏ đặt các công vụ và vũ khí như rìu, đục, dao găm; ở giữa có chuông, khay, thố và một mảnh da có sơn, dọc hai bên đặt các loại giáo có cán và bơi chèo bằng gỗ; dưới đáy quan tài còn có nhiều đồ đan, vải đã bị mục nát. Trong những đồ tùy táng này, bên cạnh các hiện vật đặc trưng của văn hóa Đông Sơn còn có các hiện vật phản ánh sự giao lưu, giao thoa văn hóa như kiếm, chuông, dao gọt hay khay.

Một số đồ tùy táng mộ thuyền Việt Khê:


Muôi đồng trang trí hình người thổi khèn


Muôi đồng hình tẩu


Đỉnh đồng


Bình đồng


Thạp đồng


Thố đồng


Âu đồng


Rìu đồng


Dao đồng


Giáo đồng


Trống đồng


Mặt trống đồng

Dựa trên kĩ thuật chế tác quan tài và đặc trưng đồ tùy táng, có thể định niên đại mộ Việt Khê M2 ở vào khoảng thế kỷ 3 – 2 trước Công nguyên.

Việc phát hiện mộ thuyền Việt Khê có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó không chỉ là nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu về táng tục và táng thức của cư dân Đông Sơn, mà còn là cơ sở để nghiên cứu về lịch sử hình thành giai cấp trong xã hội Đông Sơn, về mối quan hệ văn hóa giữa khu vực Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, hay về các ngành nghề thủ công truyền thống.

Với những ý nghĩa đó, mộ Việt Khê M2 đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia vào năm 2013. Hiện nay mộ Việt Khê M2 đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Hà Nội) và luôn là một điểm dừng thú vị, hấp dẫn đối với khách tham quan trong và ngoài nước./.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Sưu tập trang sức văn hóa Đông Sơn tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Văn hóa Đông Sơn được phát hiện đầu tiên vào năm 1924 bên bờ sông Mã thuộc làng Đông Sơn, huyện Đông Sơn, nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa. Cho đến năm 2014, quá trình phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn đã tròn 90 năm. Trải qua gần một thế kỷ, với những thành tựu của khảo cổ học, chứng cứ về Văn hóa Đông Sơn, một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam được nhiều chuyên gia, cũng như công chúng trong và ngoài nước hoàn toàn thán phục. Đây cũng là thời kỳ tạo tiền đề cơ sở vật chất cho sự ra đời nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, và là nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam.

Văn hóa Đông Sơn được phân bố chủ yếu ở 3 lưu vực sông chính đó là sông Hồng, sông Mã và sông Cả, thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Về niên đại, tồn tại trong khung thời gian từ cuối thiên niên kỷ I trước Công Nguyên đến thế kỷ 2 sau Công Nguyên. Văn hóa Đông Sơn hình thành và phát triển trên nền tảng của những văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun), cách ngày nay 4.000 đến 2.500 năm.

Hiện nay, số lượng di vật đồ sộ thuộc Văn hóa này được lưu giữ ở các bảo tàng trong nước và nước ngoài, các sưu tập tư nhân, nhưng có lẽ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một trong những đơn vị lưu giữ nhiều hiện vật Văn hóa Đông Sơn nhất, gồm các loại hình như: đồ dùng sinh hoạt, công cụ lao động, vũ khí, nhạc khí và đồ trang sức. Mỗi sưu tập đều có những chức năng sử dụng khác nhau, ẩn chứa trong mình những ý nghĩa sâu sắc, từ đó phản ánh nhiều khía cạnh trong đời sống của cư dân xã hội đương thời.

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn giới thiệu đến công chúng một sưu tập hiện vật đặc sắc: “Sưu tập trang sức Đông Sơn” hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Sưu tập không những đa dạng về loại hình, mà còn phong phú về chất liệu như đồng, đá, mã não, thủy tinh,…trong đó trang sức đồng chiếm số lượng nhiều hơn cả.

Văn hóa Đông Sơn là thời kỳ nở rộ của các sản phẩm đồng thau, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật đúc đồng, những sản phẩm đồng đã dần chiếm ưu thế trong đời sống của cư dân Đông Sơn. Trang sức bằng đồng được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ thuộc Văn hóa này, đa dạng về loại hình và kiểu dáng như: vòng (gồm vòng ống chân, vòng ống tay, vòng trổ thủng, vòng hình sống trâu, vòng có mặt cắt ngang hình bầu dục, hình tròn, hình lòng máng,…) trâm cài, khóa thắt lưng,… Một trong những loại hình đồ trang sức đồng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng nhất là vòng ống. Vòng thường có hình nón cụt hay hình trụ rỗng,… trên thân có những đường gờ nổi song song với nhau, các đường chỉ chìm, đường tròn tiếp tuyến có chấm giữa, hoa văn sóng nước, ở một hay hai đầu thường được trang trí hoa văn hình bông lúa, hình chữ S,…Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Nhiều chiếc vòng ống, ở vành miệng và thân được gắn nhạc đồng, chứng tỏ, ngoài chức năng làm đẹp, những chiếc vòng ống này còn là loại nhạc cụ độc đáo, đặc biệt trong những lễ hội. Bởi khi múa, những quả nhạc đồng (lục lạc) có kích thước xấp xỉ bằng nhau, đã rung đập vào nhau hay đập vào thân vòng tạo nên những âm thanh vui nhộn. Những lục lạc đồng không chỉ được gắn trên vòng ống, các nhà nghiên cứu còn bắt gặp chúng được gắn trên một số hiện vật khác của Đông Sơn tìm thấy trong các di chỉ ở Làng Vạc (Nghệ An) như chuông đồng, muôi đồng, xà tích, khuyên tai, nhẫn, khóa thắt lưng. Điều đó càng chứng tỏ đời sống của cư dân dân Đông Sơn gắn liền với âm nhạc và nhảy múa, đặc biệt, trong những dịp hội hè, tế, lễ. Những hình ảnh này đã được khắc họa trên một số trống đồng Đông Sơn như hình người đội mũ lông chim hóa trang nhảy múa, qua những khối tượng như: tượng người cõng nhau thổi khèn (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia – Bảo vật Quốc gia năm 2012), hay qua tượng người thổi khèn trên cán muôi đồng trong mộ thuyền Việt Khê,…. Trong khi múa, có nhiều nhạc khí đệm theo như: trống, chiêng, khèn,…và trong một dàn nhạc có nhiều khạc khí như vậy thì vòng ống gắn nhạc có tác dụng làm cho tiết tấu bản nhạc thêm vui tươi, nhộn nhịp. Vòng ống chân, ống tay còn có chức năng chống đỡ những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân. Đặc biệt, đối với đàn ông, nó như một thứ giáp chắn khi ra trận. Nhiều dân tộc còn đeo nhiều vòng ở cổ tay, cổ chân để tránh vắt cắn khi đi rừng.


Vòng tay hình sống trâu trang trí trổ thủng, đồng

Người Đông Sơn rất thích đeo nhiều trang sức, ngoài trang sức ở tai, cổ, tay, thì họ còn quan tâm đến mái tóc,. Những chiếc trâm cài đầu có chất liệu đồng tìm thấy trong các di chỉ Văn hóa Đông Sơn cũng là loại hình trang sức mang đặc trưng của cư dân thời kỳ này. Ngoài chức năng giữ cho mái tóc gọn gàng, trâm cài còn là vật trang trí, tô điểm cho mái tóc. Những phụ nữ quý tộc thường cài những loại trâm đẹp, có kích thước lớn, điển hình như chiếc trâm hình chữ P (gần giống hình chiếc vợt cán dài), mang ký hiệu LSb 24291, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia nhượng lại của ông Triệu Văn Ánh ở Hà Nội năm 1999.


Trâm cài tóc, đồng

Bên cạnh đó, khóa thắt lưng cũng là loại hình trang sức bằng đồng độc đáo của các thủ lĩnh, quan lại và những người giàu có thời kỳ này. Trên khóa thắt lưng thường trang trí những đường xoắn ốc, trang trí hình chữ S, có khóa thắt lưng gắn thêm lục lạc, và có những khóa thắt lưng trang trí cá sấu, hình rùa. Những con vật thể hiện cho sự dũng mãnh của các thủ lĩnh thời Đông Sơn.

Như vậy, những đồ trang sức này không chỉ có chức năng làm đẹp mà nó còn đóng vai trò quan trọng làm phong phú đời sống nghệ thuật, tinh thần và tâm linh của con người.

Bên cạnh những đồ trang sức bằng đồng, loại hình trang sức đá cũng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng, gồm các loại hình như vòng tay các loại, khuyên tai, hạt chuỗi,…với kỹ thuật khoan tách lõi, mài, giũa, đánh bóng,… Có lẽ khuyên tai đá hình vành khăn là loại hình phổ biến của cư dân Đông Sơn. Loại đá được người Đông Sơn lựa chọn làm đồ trang sức là các loại đá trắng, xanh, có vân, xám, vàng nâu, nổi bật nhất là màu đỏ của mã não, xanh mát của đá ngọc hay trong suốt của thạch anh. Như vậy, để làm đẹp, người Đông Sơn không chỉ chế tạo ra các loại hình trang sức độc đáo, mà còn chú trọng về màu sắc của chúng, bởi chúng góp phần tôn thêm vẻ đẹp cho bản thân họ. Đặc biệt, trong Văn hóa Đông Sơn có những hạt chuỗi đá dài 3 – 4cm, được mài vát 2 đầu, đây là loại hạt chuỗi không phải để đeo ở cổ, mà theo một số tài liệu dân tộc học thì chúng được đeo ở tai, có lỗ ở giữa để cắm giải tua hay lông chim để trang trí.


Khuyên tai hình vành khăn, thạch anh

Ngoài những trang sức bằng đồng, đá, cư dân Đông Sơn còn sử dụng đồ trang sức bằng thủy tinh. “Sản xuất thủy tinh là một nghề hoàn toàn mới, chỉ ra đời vào thời Đông Sơn, có ý kiến nói đến sự ra đời sớm của trung tâm chế tạo thủy tinh Sa Huỳnh và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các vùng xung quanh,… Như vậy nghĩa là nghề làm thủy tinh Đông Sơn có nguồn gốc hay ít nhất thì cũng chịu ảnh hưởng của nghề thủy tinh Sa Huỳnh”. [Hà Văn Tấn (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội]. Trang sức có chất liệu thủy tinh đang trưng bày và giới thiệu tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia gồm: hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai,… trong đó những chiếc vòng tay được xem là một trong những loại hình tiêu biểu.

Tuy kỹ thuật chế tác thủy tinh không phải là thế mạnh của cư dân Đông Sơn, nhưng với sự xuất hiện của đồ trang sức bằng thủy tinh trong văn hóa này cho thấy: cư dân Đông Sơn ngay từ rất sớm đã có sự giao lưu, trao đổi, cả về kỹ thuật và hàng hóa với các vùng trong khu vực.

Vậy những đồ trang sức đa dạng về chất liệu, phong phú về kiểu dáng, tinh xảo về hoa văn này đã được người Đông Sơn sử dụng như thế nào? Điều đó được phản ánh qua những khối tượng tròn trang trí trên thạp đồng, trên cán dao găm,… Những khối tượng người trang trí ở cán kiếm, cán dao găm đồng được mô tả rất chân thực và sống động như hình người đàn ông mặc khố, đứng chống nạnh, tóc búi tròn, đôi vòng tai to chấm xuống vai, tay đeo vòng, cổ đeo vòng dài xuống đến ngực. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trang trí trên cán kiếm được phát hiện ở núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) thể hiện một vẻ đẹp quý phái. Với mái tóc búi cao hình búp sen, cổ đeo hạt chuỗi dài đến bụng, vòng tai to chấm vai, hai tay đeo vòng. Qua đó cho thấy, thời kỳ này đồ trang sức được cư dân Đông Sơn khá ưa chuộng và sử dụng phổ biến cho cả đàn ông và phụ nữ. Tuy nhiên, cách trang sức của đàn ông và phụ nữ có đôi chút khác nhau, phụ nữ thường đeo khuyên tai to, nặng, dài chấm xuống vai, nhiều tượng Đông Sơn còn phát hiện họ đeo nhiều chiếc khuyên tai móc vào nhau, còn đàn ông thì đeo những chiếc khuyên nhỏ hơn, nhìn nghiêng mới thấy. Những tượng Đông Sơn phát hiện được cho đến nay mới chỉ thấy tượng phụ nữ đeo chuỗi hạt, và thường đeo nhiều chuỗi, chuỗi trong cùng sát vào cổ, chuỗi ngoài cùng chấm đến bụng, loại hình trang sức này chưa thấy ở tượng đàn ông.

Qua số lượng di vật trang sức tìm thấy trong Văn hóa Đông Sơn, chúng ta có thể hiểu, đời sống vật chất của cư dân thời kỳ này đã khá cao, từ đó họ mới có thể tập trung, dành nhiều tâm huyết và thời gian để cho ra đời nhiều loại hình trang sức cầu kỳ, tỉ mỷ và đẹp đến như vậy. Cùng với việc phản ánh sự phong phú trong đời sống tinh thần, những đồ trang sức này còn cho thấy một trình độ kỹ thuật, tư duy, thẩm mỹ trong luyện kim đúc đồng, cũng như chế tác đá của cư dân thời kỳ này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Những bằng chứng về nghề luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn

Văn hóa Đông Sơn (khoảng từ thế kỷ thứ 8 – 7 trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ 1 – 2 sau Công Nguyên) là một nền văn hóa khảo cổ học thời đại kim khí ở Việt Nam, được các nhà khảo cổ học đặt tên dựa vào sự phát hiện ngẫu nhiên một nhóm đồ đồng cổ vào năm 1924 tại làng Đông Sơn ở ven Sông Mã, nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, bắc Trung bộ Việt Nam.

So với các nền văn hóa đồng đại khác ở Miền Trung Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Đông Sơn nổi trội hơn cả ở bộ sưu tập hiện vật đồng thau, mặc dù đồ sắt cũng đã xuất hiện trong nền văn hóa này. Qua thống kê, tỷ lệ đồ đồng trong văn hóa Đông Sơn chiếm tới gần 90% trong tổng số hiện vật các chất liệu. Số lượng hiện vật đồng được tìm thấy cũng đã lên tới hàng vạn tiêu bản, thuộc nhiều loại hình khác nhau, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất, đời sống của cư dân Đông Sơn.

Đồ dùng sinh hoạt có thạp, thố, bình, lọ, âu, ấm, muôi, thìa, bát, đĩa, đèn thắp sáng,… Công cụ làm nông nghiệp, trồng lúa nước có các loại rìu để khai hoang và các loại lưỡi cày, cuốc, xẻng, mai, thuổng… để làm đất. Đặc biệt, người Đông Sơn đã biết làm ra những chiếc liềm để gặt hái cho năng suất cao hơn hẳn những chiếc nhíp thời tiền Đông Sơn chỉ ngắt được từng bông lúa một. Đối với nghề mộc thì có các loại đục vũm, đục bẹt với nhiều kiểu dáng dài ngắn, thon bè thích hợp với từng kỹ thuật đục chạm khác nhau,…

Khảo cổ học cũng đã chứng minh nghề dệt vải khá phát triển khi tìm thấy dấu tích vải và công cụ dệt vải. Bên cạnh những chiếc dọi xe chỉ bằng gốm là một số loại công cụ chuyên dụng bằng đồng như các loại dao, bàn chải. Đáng chú ý có những chiếc dao găm chuôi bẹt, trên một mặt chuôi có những gai nổi nhỏ giống như gai trên bàn chải. Có thể nói, đây là loại công cụ chuyên dùng trong nghề dệt kết hợp cả hai chức năng chải, cắt… Bộ sưu tập dụng cụ săn bắn và vũ khí đồng Đông Sơn có đầy đủ các loại vũ khí tấn công, phòng ngự, đánh xa, đánh gần như giáo, dao găm, rìu chiến, lao, mũi tên, lẫy nỏ, tấm che ngực,… Các loại khác như nhạc khí, vật dụng nghi lễ, đồ trang sức, nghệ thuật tượng tròn,… cũng không những nhiều về số lượng mà còn đa dạng về loại hình, kiểu dáng, hình thức thể hiện,…


Lưỡi cày đồng Cổ Loa

Một câu hỏi được đặt ra là, đồ đồng Đông Sơn là sản phẩm chế tác của chính cư dân Đông Sơn hay được du nhập từ bên ngoài? Cho tới nay, nhiều bằng chứng khảo cổ học thuyết phục chứng minh việc đúc đồng tại chỗ của cư dân Đông Sơn đã được tìm thấy. Đó là những chiếc khuôn đúc đồng bằng đá cát, đất nung và nồi nấu đồng bằng đất sét trộn vỏ trấu, bã thực vật phát hiện được ở Làng Cả (Phú Thọ), Làng Vạc (Nghệ An) và nhiều di tích khác,… Khuôn đúc hở (một mang) dùng để đúc hình động vật đã tìm thấy ở Lãng Ngâm (Bắc Ninh). Đồ đồng nhỏ thì được làm từ khuôn 2 mang như khuôn đúc chuông, dao găm, rìu, giáo đồng,…

Trong khu vực Thành Cổ Loa, Hà Nội cũng đã tìm thấy hàng trăm mảnh khuôn đúc mũi tên cùng dấu vết lò đúc. Riêng trống đồng được đúc bằng kỹ thuật khuôn sáp 3 mang, sử dụng một lần, đúc xong phá khuôn để lấy sản phẩm nên dấu tích loại khuôn này rất hiếm gặp. Hiện mới phát hiện một mảnh khuôn đúc trống đồng giai đoạn muộn ở Luy Lâu, Bắc Ninh.


Dấu vết lò đúc đồng ở Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội

Kỹ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt tới trình độ cao đáng kinh ngạc mà những chiếc trống đồng, thạp đồng với kích thước lớn, hình dáng cân đối, hoa văn trang trí hoàn hảo, sắc nét đến từng chi tiết,… là những minh chứng tiêu biểu nhất. Cho tới nay, hàng trăm chiếc trống đồng đã được tìm thấy trong phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn. Đồng thời, một số trống đồng Đông Sơn điển hình cũng được tìm thấy ở nhiều nơi khác thuộc Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Nhưng những chiếc trống đẹp nhất, hoàn hảo nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Cổ Loa chỉ mới phát hiện được ở Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn với những nét đặc sắc nói trên, không chỉ là biểu hiện cao nhất của công nghệ đúc đồng mà còn là sản phẩm lao động, tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Đông Sơn.

Nếu như các văn hóa tiền Đông Sơn như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chủ yếu mới dừng lại ở giai đoạn hợp kim 2 thành phần là đồng, thiếc thì tới Đông Sơn đã có bước chuyển biến mang tính đột phá. Họ đã tạo ra cả chục loại hợp kim nhiều thành phần với 3 kim loại chính là đồng, chì, thiếc. Sự có mặt của chì đã làm cho nước đồng láng đều và điền đầy vào mọi ngóc ngách của khuôn, giúp cho cư dân Đông sơn đúc được nhiều loại sản phẩm ưu việt hơn các giai đoạn trước cả về kích thước, kiểu dáng, hoa văn trang trí… Hơn nữa, người Đông Sơn đã biết gia giảm số lượng, tỷ lệ thành phần kim loại trong hợp kim cho phù hợp với từng loại hình sản phẩm, công năng sử dụng. Chẳng hạn, những vật dụng sắc nhọn như đục, rìu, mũi tên, dao găm thì sử dụng hợp kim đồng thiếc. Những hiện vật lớn, hoa văn mảnh mai, tinh xảo đòi hỏi kỹ thuật cao thì đều được đúc bằng hợp kim có chì.


Bộ dụng cụ đúc đồng tìm thấy tại Làng Cả, Phú Thọ

Với sự phát triển đột biến, mạnh mẽ như vậy, ngành luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn hẳn phải là một ngành kinh tế độc lập, đòi hỏi sự chuyên môn hóa và có sự phân công lao động rõ ràng. Một bộ phận cư dân tách khỏi nông nghiệp để chuyên đi khai mỏ, luyện quặng hoặc đúc đồng. Bằng chứng về sự chuyên môn hóa này là tại khu mộ Làng Cả đã phát hiện ngôi mộ của một thợ đúc đồng, được chôn theo 4 khuôn đúc, gồm 1 khuôn đúc chuông, 1 khuôn đúc rìu gót vuông, 1 khuôn đúc giáo và 1 khuôn đúc chuôi kiếm ngắn. Ngoài ra còn có nồi nấu và rót đồng. Trong lòng chiếc trống đồng Cổ Loa tìm thấy tại cánh đồng Mả Tre, Cổ Loa, Hà Nội năm 1982 được chôn theo rất nhiều lưỡi cày và hàng trăm mảnh đồng vụn cùng nhiều phế phẩm, mảnh vỡ đồ đồng được thu thập lại để tái đúc. Trống Cổ Loa là một trong những chiếc trống đẹp nhất. Từ đó có thể thấy, chủ nhân trống Cổ Loa phải là người có quyền lực, giàu có và có thể là một thủ lĩnh luyện kim đúc đồng.

Khi nghề luyện kim phát triển lại tác động tích cực, thúc đẩy các ngành nghề kinh tế khác phát triển theo khi cung cấp các bộ dụng cụ lao động tiên tiến, có hiệu năng cao. Như vậy, có thể nói nghề luyện kim đúc đồng là ngành kinh tế động lực đã tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế, xã hội làm cho văn hóa Đông Sơn thay đổi hẳn về chất, vượt lên hẳn cái nền của các nền văn hóa tiền Đông Sơn. Sự đột phá này là động lực giúp cho kinh tế phát triển, gia tăng giá trị thặng dư dẫn đến nhiều biến đổi sâu sắc về thượng tầng kiến trúc của xã hội Đông Sơn, làm tiền đề hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vũ khí văn hóa Đông Sơn – nét đặc trưng trong văn hóa người Việt cổ

Sau 90 năm được phát hiện và nghiên cứu, văn hóa Đông Sơn đã được các học giả trong và ngoài nước hết sức quan tâm và nghiên cứu một cách toàn diện. Các di tích, di chỉ, hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn là một khối tư liệu đồ sộ cho nhiều thế hệ nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, văn hóa, mỹ thuật… “gặt hái” được nhiều thành công trong các công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, loại hình hiện vật là vũ khí trong văn hóa Đông Sơn vẫn còn nhiều “ẩn số” để chúng ta khám phá.

Có thể dễ dàng nhận thấy, các loại hình vũ khí là những hiện vật được phát hiện nhiều nhất trong các sưu tập về văn hóa Đông Sơn, vũ khí được phát hiện ở hầu hết các di tích thuộc văn hóa Đông Sơn. Tư liệu từ kết quả khai quật một số di tích văn hóa Đông Sơn tiêu biểu cho thấy số lượng vũ khí đồng thau chiếm trên 50% tổng số hiện vật đồ đồng thu được. Tại một số di tích, vũ khí có số lượng áp đảo so với các loại hình hiện vật khác như di tích Vinh Quang, Làng Cả, Thiệu Dương, Đông Sơn, Làng Vạc,…

Vũ khí ra đời và phát triển trong xã hội loài người vừa mang tính quy luật khách quan chung của xã hội vừa có những đặc điểm riêng. Trong quá trình phát triển chung của mỗi dân tộc hay mỗi một quốc gia, loại hình vũ khí cũng có sự phát triển từ thấp lên cao với những chất liệu khác nhau, vũ khí trong văn hóa Đông Sơn đã được cư dân Việt cổ sản xuất từ hai chất liệu đồng thau và sắt. Trong đó, phần lớn là những vũ khí bằng đồng đã tạo nên những nét đặc trưng văn hóa trên cả ba khu vực phân bố chủ đạo của văn hóa Đông Sơn là trung tâm sông Hồng, trung tâm sông Mã và trung tâm sông Cả.

Vũ khí bằng chất liệu đồng thau trong văn hóa Đông Sơn vừa đa dạng về loại hình, vừa độc đáo vể kiểu dáng và tính năng sử dụng. Có thể khắng định, vũ khí giai đoạn này đã phát triển đồng bộ cả về tính năng và kỹ thuật trong quân sự như: vũ khí đánh gần – vũ khí đánh xa, vũ khí tấn công – vũ khí phòng hộ, vừa có vũ khí thực dụng vừa có vũ khí mang tính chất tâm linh, có tính biểu trưng.

Các loại hình chính gồm: Giáo là loại vũ khí đánh gần bằng động tác đâm, gồm hai bộ phận chủ yếu là bộ phận tra cán và lưỡi sắc nhọn để đâm; Lao là loại vũ khí đánh xa bằng phương pháp phóng, phần lớn có họng tra cán dài hơn mũi lao, mặt cắt ngang họng chủ yếu gần hình bầu dục, cũng có họng hình tròn hoặc bán nguyệt. Lưỡi thường giữa dày, mỏng dần về hai bên; Dao găm là loại vũ khí đánh gần, là một trong các di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn; Đinh Ba là loại vũ khí đánh gần, thường có chuôi tra cán, song cũng có một vài chiếc là họng tra cán. Chuôi tra cán thường có mặt cắt ngang hình vuông, cũng có đôi chiếc hình tròn, một số chiếc trên chuôi có mấu. Mũi đinh ba có 3 nhánh trên một khung hình chữ U, đầu nhọn, ngạnh; Kiếm là loại vũ khí đánh gần bằng động tác chém, đâm; Qua là vũ khí đánh gần bằng phương pháp bổ, vốn là một đặc hữu của vũ khí Trung Quốc, nhưng những qua phát hiện trong các di tích văn hóa Đông Sơn có phần lưỡi khác biệt trong chi tiết về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí. Qua Có 3 bộ phận chính là lưỡi, chuôi và hồ. Trên hồ thường có 3 hoặc 4 lỗ thủng hình chữ nhật dẹt thẳng hàng là lỗ để xâu dây buộc vào cán. Rìu chiến được xem là di vật quý hiếm của nền văn hóa này, còn có tên gọi khác là dao phạng vì kiểu dáng nó không giống các loại dao bình thường, mà gần giống với loại dao thái phở ngày nay.

Đặc điểm chung của loại dao phạng là kích thước khá lớn, có bản lưỡi rộng, họng tra cán nhô ra ngoài sống lưỡi, họng và lưỡi không nằm trtên cùng một trục dọc; Hàng vạn mũi tên đồng đã được phát hiện tập trung trong một hố nhỏ ở Cầu Vực Cổ Loa. Phổ biến hơn cả là loại mũi tên 3 cánh nhỏ trụ tròn chuôi dài. Ngoài ra còn có loại mũi tên cánh én dẹt và loại mũi tên giống hình giáo lao nhưng kích thước chỉ dài khoảng 6cm, một số loại hình khác chỉ phát hiện được lẻ tẻ; Lẫy nỏ có cấu tạo gồm các bộ phận hộp lẫy nỏ, lẫy nỏ, cò,… được liên kết với nhau bằng các chốt hình trụ; Tấm che ngực là loại hình vũ khí phòng hộ cho các chiến binh giống như áo giáp, chúng là những tấm đồng mỏng, một mặt có 4 quai nhỏ hoặc 4 lỗ nhỏ ở 4 góc để buộc dây, trên một mặt trang trí các hoa văn tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn như văn vạch ngắn song song, văn vòng tròn có tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn chữ X và văn người hóa trang bơi thuyền, văn cá sấu,… Cá biệt có chiếc còn đeo thêm một vài lục lạc, thường phát hiện được trong các ngôi mộ cùng với các loại vũ khí nên các nhà khảo học thống nhất gọi chúng là tấm che ngực; Bao đeo vũ khí có cấu tạo chung gồm có 3 ống đồng gần tròn, ống giữa to và dài hơn 2 ống 2 bên, các ống một đầu to một đầu nhỏ, được gắn trên một tấm đồng phẳng. Trên các ống tròn trang trí hoa văn kỷ hà rất đẹp và khắc thủng các hình tam giác, chữ nhật, dùng để đeo các loại vũ khí nhỏ nhẹ,…


Hộ tâm phiến, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay


Kiếm ngắn, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

Vũ khí đồng thau trong văn hóa Đông Sơn không những nhiều về số lượng, mà còn phong phú đa dạng về loại hình và độc đáo về phong cách. Phần lớn vũ khí không được trang trí hoa văn, song cũng không ít dao găm, dao chiến, qua, giáo, kiếm được trang trí hoa văn đẹp mắt, không chỉ trang trí ở phần cán, mà ngay phần lưỡi cũng được trang trí hoa văn mang đậm sắc thái dân tộc. Trong mỗi loại kể trên lại có nhiều hình dáng khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú.

Ví dụ như:

* Giáo tuy chỉ có hai bộ phận chính, xong những mỗi bộ phận lại được phân loại thành nhiều kiểu dáng: Bộ phận tra cán hầu hết là họng, chỉ một số ít là chuôi tra cán. Họng tra cán có các loại là họng tròn, họng gần hình bầu dục, họng gần vuông. Về kích thước bộ phận họng đa phần trung bình có độ dài bằng khoảng 1/3 chiều dài lưỡi, nhưng bên cạnh đo lại có loại họng dài tương đương lưỡi, có loại họng ngắn. Về kiểu dáng có loại họng xẻ hình đuôi cá, có loại trên họng gắn một quai tròn nhỏ, có loại họng thông sâu đến nửa chiều dài lưỡi, có loại nông hơn. Giáo chuôi tra cán thì có loại chuôi thẳng, có loại chuôi hơi cong; Lưỡi giáo cũng rất đa dạng như lưỡi hình búp đa, hình lá liễu, hình tam giác rìa lưỡi hai bên thẳng, có loại rìa lưỡi uốn lượn; Trên cánh lưỡi chỗ gần họng xòe rộng, có các lỗ thủng hình chữ nhật dẹt nhưng có loại 2 lỗ có loại 4 lỗ, có loại không có lỗ. Loại giáo có lỗ phần lớn phân bố ở lưu vực sông Mã và các khu vực phụ cận. Có chiếc cánh lưỡi phình rộng 2 chỗ trước lúc thon dần đến mũi nhọn. Phần lớn lưỡi có sống nổi cao chạy dọc lưỡi, nên mặt cắt ngang thường có hình thoi dẹt. Giáo có đủ loại kích cỡ khác nhau, có chiếc dài tới trên 50cm, chiều dài trung bình vào khoảng 20 – 25cm.


Giáo, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

* Lao có hình dạng phổ biến nhất là loại lao lưỡi dẹt có họng tra cán giống như lưỡi giáo, nhưng kích thước nhỏ hơn. Có loại mặt cắt ngang lưỡi gần hình bầu dục, có loại lại có sống nổi cao chạy dọc giữa lưỡi, nên mặt cắt ngang lưỡi có hình thoi dẹt. Đặc biệt hơn có loại lao lưỡi tạo thành hình cánh én gần giống như mũi tên cánh én, nhưng có họng tra cán và kích cỡ to hơn. Bên cạnh đó còn có loại lao ngạnh, có loại 1 ngạnh, có loại 2 ngạnh. Lao ngạnh thường có họng rất dài, trên họng có mấu hoặc một quai tròn nhỏ. Phần lớn họng tròn, song cũng có họng bầu dục dẹt. Có loại họng thon dần về mũi, song cũng có loại phần đầu phình to hơn hẳn thân lao.

* Dao găm có số lượng thì không nhiều lắm nhưng về kiểu dáng thì cực kỳ phong phú và độc đáo. Có nhiều loại dao găm ở đây không giống bất kỳ một loại vũ khí nào của các nền văn hóa khác. Nét độc đáo của dao găm Đông Sơn được thể hiện ở tất cả các bộ phận, từ đốc, cán, chắn tay đến lưỡi, nhưng độc đáo nhất là phần cán. Đốc có loại là đốc hình củ hành thường, hình củ hành có các hàng lỗ thủng hình chữ nhật dẹt. Chắn tay có loại là chắn tay ngang, có loại là chắn tay quặp kiểu sừng trâu. Lưỡi có loại gần hình tam giác, hai cạnh bên thẳng mũi nhọn, có loại hai cạnh bên cong vồng mũi tù, có loại hai cạnh bên uốn lượn mũi nhọn. Cán đơn giản hơn cả là cán hình chữ T. Đẹp và độc đáo hơn cả là cán tượng người và tượng động vật. Dao găm cán tượng người và động vật phát hiện ở nhiều nơi nhưng phong phú và đẹp nhất là bộ sưu tập dao găm ở khu mộ táng Làng Vạc (Nghệ An). Một số dao găm trên cán cũng như hai mặt lưỡi được trang trí hoa văn các vòng tròn có tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn các vạch ngắn song song và văn động vật như cá sấu, hươu nai,…


Dao găm, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

* Qua tuy phát hiện được không nhiều, nhưng về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí khá phong phú đa dạng. Chẳng hạn như chuôi, có chiếc thẳng hàng song song với lưỡi, có chiếc chuôi vểnh lên, có chiếc chuôi lại cụp xuống. Chuôi thường có dáng gần hình thang trên mặt có một số lỗ thủng hình chữ nhật và hình tròn. Lưỡi có chiếc thon nhỏ vuốt nhọn, có chiếc lưỡi cùng với hồ làm thành một hình tam giác. Phần lớn ở chỗ lưỡi nối với chuôi có tấm mang nổi ở cả hai mặt để kẹp cán khi buộc dây, và gần đấy thường có một lỗ thủng tròn. Một số qua trên lưỡi, chuôi và hồ được trang trí hoa văn kỷ hà và hình động vật như hươu nai và cá sấu khá đẹp.

Với sự ra đời và phát triển của nghề luyện đúc đồng, trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn việc sản xuất vũ khí đồng thau có điều kiện phát triển nhanh, mạnh. Vũ khí được sản xuất bằng phương pháp đúc bằng khuôn đá hoặc khuôn đất nung, nên sản xuất được hàng loạt, số lượng tăng nhanh. Bằng phương pháp đúc, vũ khí đồng thau được tăng cường độ sắc, nhọn so với các loại vũ khí khác trước đó, nâng cao độ sát thương đồng thời có điều kiện sản xuất ra nhiều chủng loại vũ khí chỉ trong một thời gian ngắn.

Bên cạnh chất liệu đồng, vũ khí Đông Sơn giai đoạn muộn còn xuất hiện những hiện vật chất liệu sắt và một số hiện vật được chế tác kết hợp từ hai chất liệu, thường là lưỡi được làm bằng sắt, chuôi hoặc tay cầm được làm bằng đồng. Tuy số lượng và loại hình những hiện vật vũ khí được làm từ chất liệu sắt hoặc kết hợp đồng và sắt không nhiều, chỉ gồm một số loại giáo, lao, kiếm… song các hiện vật này lại có những giá trị về văn hóa và sử dụng nhất định. Về mặt sử dụng, rõ ràng chất liệu sắt sẽ tạo ra độ cứng và sắc hơn hẳn chất liệu đồng, vì vậy vũ khí có lưỡi bằng sắt là một cải tiến hết sức quan trọng về mặt kỹ thuật chế tác và khả năng chiến đấu của người Đông Sơn. Về văn hóa, các hiện vật đều mang những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa Đông Sơn cả về hình dáng cũng như hoa văn trang trí, bộ phận làm bằng đồng của nhiều hiện vật được trang trí hoa văn rất đẹp, đặc biệt là loại kiếm dài có hoa văn “hình thuyền” (có lẽ tên gọi và ý nghĩa của loại hoa văn này còn cần được nghiên cứu thêm nữa) trên đốc kiếm đã thực sự trở thành một loại vũ khí đặc trưng của văn hóa Đông Sơn.

Đặc biệt, vũ khí văn hóa Đông Sơn, bên cạnh những loại vũ khí có tính kế thừa truyền thống từ giai đoạn trước như giáo, lao, qua, mũi tên, rìu chiến, đã có thêm loại vũ khí tiến bộ nhất lúc bấy giờ là nỏ và mũi tên ba cánh – một loại vũ khí vừa để phòng thủ vừa tấn công tầm xa. Những hình ảnh cỗ máy bắn nỏ được đặt trên các lâu thuyền được khắc họa trên hoa văn trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ,… cùng với việc phát hiện được hàng vạn mũi tên đồng ở Cổ Loa và lẫy nỏ trong một số di tích văn hóa Đông Sơn đã phản ảnh lõi lịch sử trong các truyền thuyết về An Dương Vương xây thành Cổ Loa và là minh chứng rất rõ nét về tài bắn nỏ của cư dân Đông Sơn. Nỏ và cách sử dụng nỏ, cách phối hợp, tác chiến của loại vũ khí này trên chiến trường cũng khẳng định rõ nét thêm bản sắc “phương Nam”, trí tuệ và sức mạnh nội lực trong sự phát triển của cộng đồng cư dân khối Bách Việt nói chung, cư dân Âu Lạc – chủ nhân của văn hóa Đông Sơn nói riêng.


Mũi tên, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

Từ những nét đặc trưng về loại hình, kiểu dáng, số lượng, hoa văn trang trí của vũ khí trong văn hóa Đông Sơn, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng thể về sự phát triển trong chính trị – xã hội, trình độ kỹ thuật, văn hóa của cư dân giai đoạn này. Sự xuất hiện với số lượng áp đảo, phong phú về loại hình và chất lượng của sản phẩm đã khẳng định cư dân văn hóa Đông Sơn đã đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật cao, nhất là trong kỹ thuật luyện kim và làm chủ kỹ thuật chế tác sản phẩm từ các vật liệu kim loại. Và theo quy luật phát triển chung, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đương nhiên sẽ là sự phát triển về kinh tế, xã hội và nền tảng chính trị,…

Hiện tượng này được phản ảnh khá rõ trong các khu mộ táng. Phần nhiều mộ táng không có đồ tùy táng hoặc chỉ có một hai đồ gốm, thì một số mộ có kích thước tương đối lớn chôn nhiều đồ tùy táng, trong đó có một số đồ đồng quý hiếm như đồ dùng để tế lễ và đồ trang sức đẹp, đặc biệt có mộ chôn theo một số lượng vũ khí rất lớn. Điều này phản ảnh xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và trong xã hội đã xuất hiện các giai cấp có địa vị khác nhau, đồng thời dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng trong cộng đồng, quyền lực thống trị trên một vùng lãnh thổ nhất định,… Đây cũng là nguyên nhân cơ bản để cho các loại vũ khí có điều kiện phát triển về mọi mặt và ngày một trở thành nhu cầu thiết yếu của con người trong giai đoạn này. Cũng theo quy luật phát triển, trên địa bàn phân bố của cư dân văn hóa Đông Sơn, dần dần hình thành những liên minh bộ lạc và hình thức Nhà nước sơ khai mà đỉnh cao là Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng đã ra đời. Và ngay từ buổi bình minh của dân tộc Việt, ông cha chúng ta đã phải liên tục chống lại cũng như đánh thắng nhiều kẻ thù nhăm nhe xâm lược và thôn tính. Như vậy, sự phong phú, đa dạng của vũ khí văn hóa Đông Sơn đã trở thành minh chứng chủ đạo cho một giai đoạn lịch sử hết sức quan trọng – giai đoạn dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Viện Khảo cổ học – Khảo cổ học Việt Nam, Tập II/Thời đại kim khí Việt Nam. NXB KHXH., Hà Nội, 1999.

2. Hà Văn Tấn – Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. NXB KHXH./ 1994

3. Phạm Minh Huyền – Văn hóa Đông Sơn tính thống nhất và đa dạng. NXB KHXH, 1996.