Archives

Đời sống vật chất của cư dân Đông Sơn

  1. Sản xuất nông nghiệp

Văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa vật chất của cư dân Việt cổ tồn tại dưới thời đại các vua Hùng, cư dân Đông Sơn làm nông nghiệp lúa nước, trình độ canh tác phát triển cao. Thời kì này nông nghiệp phát triển dựa vào điều kiện tự nhiên rất thuận lợi: khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, hệ thống sông ngòi dày đặc cung cấp nước tưới cho cây trồng, đồng bằng được bồi đắp bởi phù sa. Sách “Giao châu ngoại vực ký” thế kỉ IV, được dẫn lại trong “Thủy Kinh Chú” của Lịch Đạo Nguyên có đoạn trích: “Ngày xưa lúc Giao Chỉ chưa có quận huyện, đất đai có lạc điền, ruộng  này theo thủy triều lên xuống. Dân khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân, đặt Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện”.

Cư dân Đông Sơn xưa còn trồng các cây rau củ, cây ăn quả; chăn nuôi gia súc, gia cầm; nghề đánh bắt thủy hải sản; hái lượm và săn bắn thú rừng cũng rất phát triển, do công nghệ đúc đồng đã đạt tới trình độ đỉnh cao nên người Đông Sơn đã chế tác ra được nhiều công cụ lao động, vũ khí bằng đồng sử dụng vào sản xuất làm tăng năng suất lao động.

Thời gian vừa qua nghành khảo cổ học đã phát hiện hàng trăm di chỉ và khai quật được hàng vạn công cụ lao động trên khắp địa bàn phân bố của nền văn hóa Đông Sơn. Có thể nói việc sử dụng một cách rộng rãi công cụ lao động bằng đồng và sức kéo của trâu, bò đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, năng suất lao động được nâng cao, sản phẩm dư thừa nhiều, đó là yếu tố hàng đầu quyết định đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc dưới thời đại các vua Hùng.

Lương thực chính của cư dân Việt cổ xưa kia là gạo tẻ (họ ăn gạo tẻ trong các bữa ăn hàng ngày), ngoài ra họ còn ăn gạo nếp, và các loại thực phẩm có nguồn gốc tự nhiên như rau, củ quả. Thức ăn được nấu chín bằng lửa, ngay từ xa xưa họ đã biết dùng gia vị có nguồn gốc thực vật, biết nấu rượu… điều này đã được nói trong các thư tịch cổ như: Dị vật chí, Giao Châu ký, Nam phương thảo mộc trạng, Thủy Kinh chú, Lĩnh Nam chích quái.

  1. Thủ công nghiệp

Nông nghiệp phát triển, tạo điều kiện cho thủ công nghiệp có điều kiện phát triển tạo ra bước đột phá đó là kỹ thuật luyện kim, đúc đồng chế tác công cụ lao động, vũ khí phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Nghề sản xuất đồ gốm không được quan tâm phát triển như trước nhiều, chất liệu gốm chủ yếu là đất sét pha cát nên xương gốm thô, thậm chí hiện vật còn méo mó, hoa văn trang trí đơn giản chiếm tỷ lệ lớn là hoa văn thừng, văn chải, loại hình chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt có kích thước nhỏ.

Người Đông Sơn cũng đã biết đến công nghệ chế tác đồ trang sức bằng thủy tinh (sự giao thoa với văn hóa Sa Huỳnh), nhưng hiện vật bằng thủy tinh do người Đông Sơn chế tác thô hơn. Bên cạnh đó họ còn chế tác những chuỗi hạt bằng nhuyễn thể như ốc, xương…

Phát hiện nhiều dụng cụ sử dụng trong nghề mộc như: dùi, đục điều này chứng tỏ người Đông Sơn cũng đã biết sử dụng những vật liệu tự nhiên để làm nhà ở. Cư dân Đông Sơn làm nhà sàn để ở chống thú dữ, và đối phó với môi trường khắc nhiệt (mẫu nhà sàn được đúc nổi trên trống đồng, những cột gỗ dựng nhà được phát hiện trong các cuộc khai quật của L.Pajot).

Nghề xe sợi dệt vải cũng khá phát triển (công cụ được tìm thấy là chuốt vải với số lượng lớn, ngoài ra còn tìm thấy vải trong các ngôi mộ cổ), nguyên liệu chính để dệt vải là cây gai, đay. Khai quật những ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những mẩu vải sót lại của quần áo, đem phân tích thì tìm thấy thành phần của cây gai.

Những họa tiết trang trí trên đồ gốm và đồ đồng (hoa văn hình đan trên gốm) cùng nhiều tư liệu khoa học đã cho chúng ta biết vào thời kỳ này con người còn biết lấy tre nứa để đan những đồ dùng sinh hoạt, trồng cói đan chiếu (trong một số một táng còn phát hiện dấu vết của những mảnh chiếu còn sót lại để bọc tử thi, những họa tiết trang trí trên gốm). Nghề chế tác đá không còn được quan tâm nhiều như trước đây, số lượng công cụ bằng đá chiếm tỷ lệ rất thấp so với đồ đồng.

  1. Nhà ở, giao thông đi lại

Cư dân Đông Sơn thường sống quần tụ thành những xóm làng với quy mô nhỏ, phân bố không đồng đều. Họ sống ven các con sông, điều này rất thuận tiện cho nền nông nghiệp lúa nước, sinh hoạt và giao thông đi lại (sử dụng thuyền). Nhà sàn được dựng bằng những vật liệu gần gũi với thiên nhiên như: gỗ, tre, nứa, lá. Vết tích nhà sàn còn được khắc họa trên trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà. Có 2 loại nhà sàn chính đó là nhà mái cong và mái tròn, nhà sàn mái cong hình thuyền, 2 đầu vểnh lên trang trí hình đầu chim. Mái nhà hình thang cân lợp lá, nhà hình tròn 2 đầu trang trí hoa văn hình xoắn ốc.

Phương tiện giao thông chủ yếu của cư dân Đông Sơn là thuyền bè, vì họ thường sống ven các con sông lớn, ngoài ra thuyền còn là phương tiện sử dụng để đi biển (bằng chứng là sự giao thoa văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh và phía Nam Trung Hoa), hình ảnh những con thuyền lớn được đúc nổi trên trống hay thạp đồng, đã chứng minh cho điều đó. Khảo cổ học phát hiện những ngôi mộ thuyền được làm bằng thân cây khoét rỗng bên trong chôn người chết và những đồ tùy táng bằng đồng, loại hình mộ này thường tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng chiêm trũng ở Hải Dương, Hà Tây, Hải Phòng….

  1. Trang phục

Trang phục của người Đông Sơn cũng hết sức độc đáo đàn ông cởi trần đóng khố, đàn bà mặc yếm, áo, váy (hai loại cơ bản là váy quấn và váy chui). Tóc để theo các kiểu cắt ngắn, búi tó, tết bím, hoặc quấn ngược lên đỉnh đầu (điều này được thể hiện bằng hình ảnh cập đôi nam nữ đang giao phối trên thạp đồng Đào Thịnh, hình trang trí trên trống đồng, dao găm có chuôi trang trí người phụ nữ). Đầu đội mũ lông chim (hiện vật bao đầu bằng đồng khá phổ biến, có trang trí hoa văn). Tai đeo khuyên tai bằng đồng, thủy tinh, đá. Cổ đeo những chuỗi hạt bằng thủy tinh nhiều màu sắc như xanh, đỏ, vàng, ngoài ra còn có vòng đeo tay chất liệu bằng đá, vòng trang sức bằng đồng. Tay đeo nhẫn, vòng tay chất liệu đồng hoặc đá, bao tay bằng đồng, thắt lưng có móc hình rùa, chim. Chân đeo vòng, bao chân có gắn lục lạc để khi nhảy múa phát ra âm thanh, những chiếc vòng như vậy thường được sử dụng trong các lễ hội của cư dân nông nghiệp lúa nước, hoặc được tầng lớp trên trong xã hội sử dụng.

 

Văn hóa Đông Sơn và lịch sử nghiên cứu

 

Văn hoá Đông Sơn là nền văn hóa vật chất của cư dân Việt cổ, tồn tại vào khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ I – II sau Công nguyên dưới thời đại Hùng Vương. Văn hóa Đông Sơn ra đời, phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của cả một quá trình hội tụ lâu dài những tinh hoa của các giai đoạn tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun). Văn hóa Đông Sơn phân bố rộng từ biên giới phía Bắc cho tới Đèo Ngang (Quảng Bình), chủ yếu ở lưu vực ba con sông lớn là sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Hiện vật văn hóa Đông Sơn rất đa dạng, phong phú bao gồm công cụ lao động sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, nhạc khí, vũ khí, đồ trang sức, đồ tùy táng.

Văn hóa Đông Sơn chính thức được phát hiện và nghiên cứu từ năm 1924, nhưng phải đến năm 1934 một học giả người Áo là Heine – Geldern mới đề nghị gọi tên nền văn hóa đồ đồng này là văn hóa Đông Sơn, từ đó thuật ngữ này được sử dụng một cách phổ biến và chính thống cho đến ngày nay. Năm 1924, một người câu cá tên Nguyễn Văn Lắm đã ngẫu nhiên tìm được một số đồ đồng ở ven sông Mã, thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa. Người này sau đó đã đem số đồ đồng này bán cho L.Pajot (một viên chức thuế quan tỉnh Thanh Hóa). Phát hiện này được báo cáo cho Trường Viễn Đông Bác Cổ, L.Pajot được ủy nhiệm tiến hành khai quật khảo cổ di chỉ Đông Sơn.

Từ năm 1924 đến năm 1932, L.Pajot đã tiến hành nhiều cuộc khai quật và thu được khoảng 489 hiện vật đủ các chất liệu: đồng, đá, gốm, sắt phát hiện được di chỉ mộ táng và cột gỗ dựng nhà sàn. Kết quả của những cuộc khai quật này được giới thiệu trong tác phẩm “Thời đại đồng thau ở Bắc kì và Bắc Trung Kì” tác giả là Goloubew. Từ năm 1935 đến năm 1939, Olov Janse nhà khảo cổ học người Thụy Điển đã 3 lần thực hiện khai quật di chỉ Đông Sơn và nhiều địa điểm khác, kết quả của những lần khai quật này được báo cáo trong “Nghiên cứu khảo cổ học ở Đông Dương”, trong thời gian này còn có rất nhiều nghiên cứu của các học giả nước ngoài về văn hóa Đông Sơn: “Nguồn gốc và sự phân bố của trống đồng kim loại”, “Cư dân Đông Sơn”, “Nhà Đông Sơn”, “Tuổi của trống đồng cổ”, “Nguồn gốc văn minh Việt Nam” v.v.

Trong những năm 40 cùng với quá trình xâm lược và đô hộ nước ta phát xít Nhật cũng đã có nhiều nghiên cứu về văn hóa đồ đồng ở Việt Nam, nhưng họ nghiên cứu chủ yếu thông qua tư liệu và hiện vật thật chứ không tổ chức khai quật khảo cổ như người Pháp.

Sau thành công của cách mạng tháng 8 – 1945, nền khảo cổ học nước nhà bắt đầu được quan tâm nhiều hơn, gắn với tên tuổi của nhiều nhà khoa học như: Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn và nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Đông Sơn đã ra đời: “Văn hóa Đông Sơn hay văn hóa Lạc Việt”, “Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt”. Nhưng phải đến cuối những năm 50 với việc ra đời của đội khảo cổ thuộc Vụ Bảo tồn Bảo tàng và thành lập Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trên cơ sở bảo tàng L.Finot, thì công cuộc nghiên cứu tìm hiểu văn hóa Đông Sơn mới được triển khai mạnh mẽ.

Trong những năm 1960 các nhà khảo cổ việt Nam tiến hành khai quật ở di chỉ Thiệu Dương (Thanh Hóa), đã phát hiện nhiều mộ táng huyệt đất và đồ tùy táng bằng gốm, đồng, đá, đặc biệt còn phát hiện ra nhiều di chỉ mới như: Đào Thịnh, Yên Hưng, Việt Khê, Nam Chính, Châu Can, Phú Hậu, Thanh Đình, Núi Nấp, Gò Công trên địa bàn phân bố dọc từ Bắc Trung Bộ đến dải đất miền Trung. Kết quả của những đợt khảo cổ này được tập hợp trong các công trình: “Báo cáo cụ thể về những mũi tên đồng tìm thấy ở Cổ Loa”, “Những ngôi mộ cổ tìm thấy ở Việt Khê – Hải Phòng”, “Khu mộ cổ Châu Can”, “Những vết tích đầu tiên của thời đại đồng thau Việt Nam”, “ Thời đại Hùng Vương”.